Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

16 Tháng Mười Hai 201908:14(Xem: 5824)
Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về
Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

 
Chúc Phú

hoa sen

Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[1].

Chúc Phú.

Kể từ khi Đức Phật cho phép các tỳ-kheo được học tập kinh điển bằng ngôn ngữ của đất nước mình, thì đó cũng là lúc hình thành nên những truyền thống kinh điển của từng quốc gia khác nhau trên thế giới.

Ở đây, trong quá trình biến thiên của lịch sử, đã có những truyền thống Phật giáo bị lụi tàn nên cũng đồng thời kéo theo sự mai một về những nền tảng kinh điển quý báu của trường phái ấy. Không những vậy, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, kể cả sự tác động có chủ ý của con người, khiến cho nhiều truyền thống kinh điển bị pha trộn nhiều yếu tố phi Phật giáo.

 Với trí tuệ vượt mọi khoảng không gian và cả thời gian, Đức Phật đã nhìn thấy những trăn trở, những khó khăn, những bất đồng, những va chạm… trong quá trình các chúng đệ tử giữ gìn, phiên dịchluận giải về những lời dạy của Ngài. Do vậy, Ngài đã có những lời dạy mang tính định hướng liên quan đển việc giữ gìn, chuyển dịch, truyền thụ kinh điển, thể hiện cụ thể qua Bốn giáo pháp lớn ( 四大教法) trong kinh Du Hành, thuộc Trường A-Hàm.

Kinh ghi:

“Bốn giáo pháp lớn là: Nếu có tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư hiền! Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ Phật, đích thân thọ lãnh giáo pháp này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác, các thầy hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, thầy đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều thầy nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều thầy vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các thầy nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ nhất.

Lại nữa, có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở tại thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một đại chúng hòa hợp, toàn bậc trưởng thượng đa văn, đích thân nghe các ngài ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ hai.

Lại có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một hội chúng tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi, đích thân nghe các vị ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ ba.

[18a09] Lại có tỳ-kheo nói như vầy: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ một vị tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi dạy, đích thân thọ lãnh Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp; nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ tư”[2].

Từ những lời dạy cô động này của Đức Phật, chúng ta có thể khái quát thành những điểm cơ bản như sau:

Trước hết, Bốn đại giáo pháp này đề cập đến vai trò quan trọng của nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu nguồn cội nhất là những lời dạy trực tiếp của chính Đức Phật; sau đó là các bậc trưởng thượng đa văn; thứ ba là hội chúng tỳ kheo trì pháp, trì luật; và thứ tư là một vị tỳ kheo trì pháp, trì luật. Theo quan điểm của khoa học nghiên cứu, nguồn tư liệu sơ cấp (primary sources) bao giờ cũng là nguồn thư tịch quan trọng hàng đầu. Thế nhưng ở đây, khi tiếp cận kinh điển ở bất kỳ nguồn nào, dù đó là vị tỳ-kheo không danh tiếng hay một bậc khả tín như chính Đức Phật, nhưng khoan vội tin ngay và cũng chớ nên vội vàng phản bác. Đây là thái độ cần có của một người thực hiện sứ mạng phiên dịch kinh điển. Vì lẽ, nếu như không giữ được tâm thế trầm tĩnh, kham nhẫn, khách quan này, thì người làm công tác phiên dịch kinh điển dễ dàng mất bình tĩnh, dễ khởi sân tâm và đôi khi có những ngôn từ chưa nhã ngữ.

Thứ hai, thái độ tham chiếu, đối khảo kinh điển là cơ sở cần thiếthết sức quan trọng để chứng thực lời Phật dạy. Đây là điều kiện tối cần vì chúng ta đã cách Phật quá xa. Từ thực tế cho thấy, ngay từ thời Đức Phật, tùy kheo khả năng chuyên biệt mà đã có những vị uyên thâm và sở đắc về kinh, luật và luận khác nhau. Không những vậy, trong quá trình phát triển, đã có những bộ phái Phật giáo lụi tàn, biến mất nên đã đồng thời kéo theo sự mai một truyền thống kinh điển của bộ phái đó. Đây là chưa kể đến sự tác động có chủ ý của con người, khiến những lời dạy của Đức Phật dù được lưu lại bằng văn bản, nhưng vẫn có khả năng đi quá xa và đi lạc Thánh ý. Chính vì vậy, nguồn tư liệu dùng để tham chiếu càng nhiều, càng tường tận, càng quy mô, thì tính chân thực của kinh điển càng được đảm bảo.

Thứ ba, khi đã xác tín rằng, đây là lời Phật dạy và kia chưa phải là lời Phật dạy thì cần có một thái độ ứng xử đúng mực theo lời dạy của Đức Phật. Nếu như sau khi đã tham chiếu mọi nguồn kinh điển khả tín, và phát hiện ra rằng, lời nói của vị pháp sư, hoặc nghĩa của bản kinh được dịch chưa đúng với lời Phật dạy, thì vị pháp sư hoặc người dịch kia phải thể hiện tinh thần cầu thị, không nên cố chấp. Yếu tính vô ngã cần phải được vận dụng trong trường hợp này. Phải hiểu rằng, pháp là của Phật, không phải của ta. Trong tất cả, cần phải trầm tư về lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: Tỳ-kheo chớ tự tin./ Khi lậu hoặc chưa diệt (Bhikkhu vissāsamāpādi, appatto āsavakkhayaṃ, Dhp.272). Từ trường hợp của ngài Đạo Sanh (355-434), khi phát hiện và tuyên bố về trường hợp Nhất-xiển-đề có thể thành Phật. Tuyên bố này đúng với lời dạy của Đức Phật, nhưng ngài Đạo Sanh đã bị số đông người xuất gia thời ấy tẩn xuất khỏi Tăng-đoàn[3]. Sự kiện đặc thù đó đã cho thấy rằng, chân lý chưa hẳn thuộc về số đông, nhất là số đông chưa thuần chánh pháp. Trường hợp này là một bi kịch liên quan đến lịch sử phiên kinh, mà chúng ta cần phải nhận ra để phòng tránh.

Thứ tư, ngôn ngữ là một thực thể sinh động và được vận hành theo những quy luật đặc thù của riêng chúng. Nhờ có ngôn ngữcon người có thể tự hiểu rõ chính mình, hiểu rõ xung quanh, hiểu rõ bản chất của cuộc đời cũng như cả thế giới. Thưc tế cho  thấy rằng, lời dạy của Đức Phật được truyền dạy cho đến ngày nay phần lớn được giữ gìn trên một phương diện của ngôn ngữ, là chữ viết. Việc am tườngthuần thục ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như nhiều thể loại ngôn ngữ khác nhau, cách vận dụng linh hoạt của từng thể loại ngôn ngữ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, là những điều kiện quan trọng. Đó cũng là lưu ý của Đức Phật trong kinh Vô tránh phân biệt, thuộc Trung Bộ: Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết (những chữ) Pati... Patta... Vittha.. Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy, như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: "Chỉ như vậy là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.[4]

Cuối cùng, quá trình tiếp cận, nghiên cứu, chuyển dịch lời dạy của Đức Phật sang bản ngữ là một sứ mạng quá đỗi gian khó và cũng rất cao quý, thiêng liêng. Theo quan kiến riêng của người viết thì công đức cũng từ đây và đọa đày cũng từ đấy. Do vậy, việc thường xuyên nuôi dưỡng và thắp sáng ý thức này, cũng là một trong những phương cách để tự mình kiện toàn những điều kiện cần thiết, cũng như giúp cho tự thân nếm trải pháp vị đề-hồ từ chánh pháp uyên nguyên.

Chúc Phú



[1] Culla Vagga, tập 2, chương Các tiểu sự, Việc chuyển đổi lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật, đoạn 180. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-kheo Indacanda. Xem thêm, 大正藏第 22 冊 No 1.428 四分律, 卷第五十二, 雜揵度之二. Nguyên văn: 聽隨國俗言音所解誦習佛經.

[2] Bản dịch của Ban hiệu chú Đại tạng kinh, thuộc Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam.

[3] 大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第二十六. Nguyên văn: 師被擯南還入虎丘山.

[4] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 575.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 150)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 197)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 222)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 286)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 197)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 249)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 318)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 282)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 379)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 474)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 575)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 842)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 733)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 940)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 716)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 711)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 712)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1669)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1279)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1099)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1024)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant