Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiên Cứu Về Một Vài Trường Hợp Liên Quan Đến Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.

24 Tháng Sáu 202006:59(Xem: 4990)
Nghiên Cứu Về Một Vài Trường Hợp Liên Quan Đến Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.
Nghiên Cứu Về Một Vài  Trường Hợp Liên Quan Đến
Chữ Chánh (正) Trong Bốn Bộ A-hàm.

Chúc Phú

CHÂN TÂM VÀ VỌNG TÂM

Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ). Thực tế này không những tồn tại trong văn chương, chữ nghĩa ở nghĩa Ấn Độ thời cổ đại mà còn xuất hiện trong nhiều ngôn ngữthế giới ngày nay. Đó cũng là điều mà chúng tôi đã từng đề cập trong vài chuyên khảo trước đây. Và, ở trong trường hợp này, chúng tôi sẽ trình bày về những cội nguồn ngữ nghĩa có liên hệ đến chữ chánh () trong quá trình phiên dịch kinh điển nói chung.

Những tưởng một chữ với cấu trúc tự dạng giản đơn như chữ chánh (), nhưng nếu tham chiếu với kho tàng dụng ngữ tương đương trong nam Phạn Pāli thì đã có những trường nghĩa cũng như những cách hiểu rất khác biệt. Theo từ điển Pāli của Pāli Text Society (PTS) và từ điển Pāli-Hán (巴漢詞典) của tỳ-kheo Mahāñāṇo thì chữ chánh () có tương đương Pāli là sammā. Theo từ điển Pāli của PTS thì sammā có nhiều nghĩa.

Thứ nhất: đúng sự thật, chính xác, phù hợp, chân chánh, chân thật.

Thứ hai: hoàn toàn, toàn diện, triệt để, hoàn hảo, viên mãn, hết thảy.

Thứ ba: tốt đẹp, khéo léo.

Về phương diện Hán ngữ, trong 51 nghĩa của chữ chánh () theo Hán ngữ đại từ điển, phần lớn đều bao hàm các nghĩa ở trường hợp thứ nhất của chữ sammā mà không đề cập đến hai trường nghĩa còn lại.

Cũng từ lý do này đã tạo nên những ngữ nghĩa đa dạng trong khi chuyển dịch những cú ngữ có thành tố sammā sang những ngôn ngữ khác. Ở đây, chúng tôi xin lần lượt điểm qua một vài trường hợp phù hợp và chưa phù hợp trong lịch sử phiên dịch Phạn-Hán, Phạn – Anh và cả Phạn-Việt.

1.     Trường hợp thứ nhất.


Chữ chánh () mang nghĩa là đúng sự thật, chính xác, phù hợp, chân chánh, chân thật.

Ví dụ:

Chánh kiến (正見- sammādiṭṭhi): thấy đúng sự thật.

Chánh mạng (正命- sammājīva): nuôi mạng chân chánh.

Chánh luật nghi (正律儀-sammāsaṃvara): sự phòng hộ chân chánh.

Trong trường hợp thứ nhất này, nghĩa của chữ chánh () rất mực rõ ràng nên hầu như không có gì phải bàn cãi.

2.     Trường hợp thứ hai.


Chữ chánh () nằm trong những cú ngữ chánh giác giả (者) chánh tận giác giả (者); đẳng chánh giác giả (等者) tối chánh giác giả (最正覺者); vô thượng chánh giác giả (無上者);

Những trường hợp này phần lớn xuất hiện trong Bốn bộ A-hàm

Theo đối chiếu, những cách chuyển dịch sai khác nêu trên có tương đương Pāli là sammāsambuddhassa. Ở đây, sammā là trạng từ, có nhiều nghĩa, nghĩa được sử dụng ở đây là nghĩa hoàn toàn[1]; sam tiếp đầu ngữ, mang nghĩa là tự bản thân; buddhassa là danh từ, nam tính, số ít, chỉ cho bậc giác ngộ.

Như vậy, đối với các trường hợp sai khác nêu trên được Hán dịch từ hợp ngữ sammāsambuddhassa thì có thể được dịch thống nhất là bậc Giác Ngộ hoàn toàn/ bậc Giác Ngộ viên mãn.

3.     Trường hợp thứ ba


Chữ chánh () nằm trong cú ngữ chánh tâm giải thoát (), hoặc tâm chánh giải thoát ().

Trường hợp này chỉ xuất hiện trong Trung A-hàmTạp A-hàm.

Theo đối khảo, cú ngữ chánh tâm giải thoát () có tương đương Pāli là sammā vimuttacitta.

Trung A-hàm, kinh số 12 có nguyên tác như sau:

惒破!比丘如是,得此六善住處

 Theo kinh Tăng Chi Bộ (A.4.195-ii.196), với nguyên tác Pāli:

Evaṃ sammā vimuttacittassa kho, vappa, bhikkhuno cha satatavihārā adhigatā honti.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là:

 Như vậy, này Vappa, với vị Tỷ-kheo có tâm được chơn chánh giải thoát, sáu an trú thường hằng được chứng đắc.

Cùng bản kinh này, Tỳ-kheo Bodhi dịch cú ngữ sammā vimuttacitta perfectly liberated in mind (trong tâm được giải thoát hoàn toàn).

Cũng liên hệ đến trường hợp này, Trung A-hàm, kinh số 74 ghi:

是時,尊者阿那律陀得阿羅呵,,得長老上尊,則於爾時而說頌曰:

 Tương tự, Tạp A-hàm, kinh số 28 đã giải thích:

佛告比丘: 於色生厭、離欲、滅盡, 不起諸漏,,是名比丘見法涅槃;如是受、想、行、識, 於識生厭、離欲、滅盡,不起諸漏,,是名比丘見法涅槃.

Theo hai bản kinh Trung A-hàmTạp A-hàm vừa dẫn, từ những cơ sở như chứng đắc quả A-la-hán, sự nhàm chán, lìa dục, diệt tận, không khởi các lậu đối với sắc và thành tựu Niết-bàn ngay trong hiện tại thì cú ngữ tâm chánh giải thoát () ở trường hợp này nếu được chuyển dịch là tâm được giải thoát hoàn toàn có lẽ sẽ phù hợp hơn so với nghĩa tâm chân chánh được giải thoát.

Như vậy, ở cú ngữ chánh tâm giải thoát (), hoặc tâm chánh giải thoát () thì chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

 Tâm được giải thoát hoàn toàn.

4.     Trường hợp thứ tư.


Chữ chánh () nằm trong cú ngữ chánh tận khổ ()

Trường hợp này xuất hiện nhiều nhất ở Trung A-hàmTạp A-hàm.

Theo đối chiếu, chánh tận khổ () có tương đương Pāli là sammā dukkhakkhaya. Điều đặc thù là cú ngữ này được sử dụng như một định ngữ, xuyên suốt và giống hệt nhau trong cả bốn bộ Nikāya.

Trong quá trình phiên dịch Pāli-Việt cú ngữ sammā dukkhakkhaya cũng được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch thống nhất, với khác biệt một vài chữ. Cụ thể như:

2.1 Kinh Trường Bộ (D.33): chơn chánh, đoạn diệt khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch).

Cũng bản kinh này, tác giả Maurice O'Connell Walshe dịch là the utter destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau).

4.2  Kinh Trung Bộ (M. 53): chơn chánh đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch).

Cũng bản kinh này, tác giả I.B Horner dịch là the complete destruction of anguish (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau). Cũng trong trường hợp này, tỳ-kheo Bodhi dịch là the complete destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau).

4.3  Kinh Tương Ưng Bộ (S.48.9-v.196): chơn chánh đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch). Và tỳ-kheo Sujato dịch là the complete ending of suffering (chấm dứt hoàn toàn khổ đau).

4.4  Kinh Tăng Chi Bộ (A.5.2-iii.2): đoạn tận khổ đau (HT. Thích Minh Châu dịch). Và tỳ-kheo Bodhi dịch là the complete destruction of suffering (đoạn trừ hoàn toàn khổ đau).

Có thể nói, trong Bốn bộ Nikāya vừa nêu thì chữ sammā được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là chân chánh. Cũng chữ đó nhưng được các nhà phiên dịch Pāli-Anh dịch là hoàn toàn (complete).

Từ sự đối khảo cú ngữ  chánh tận khổ () với tương đương Pāli sammā dukkhakkhaya qua những dịch ngữ vừa nêu đã cho thấy, với phương diện Pāli-Anh thì cách dịch chấm dứt hoàn toàn khổ đau là dịch ngữ được phần đông những dịch giả có thẩm quyền sử dụng.

Bên cạnh những liên hệ về ngữ nghĩa Pāli-Việt, Pāli-Anh thì ở Hán tạng, trong luận Du-già-sư-địa cũng góp phần bổ sung thêm tư liệu về trường họp này. Theo sự giải thích của luận Du-già-sư-địa, quyển 95:

 Chánh tận khổ nghĩa là, khi vừa thấy rõ chân lý thì bắt đầu[2] đoạn trừ mọi đau khổ rồi thoát khỏi khổ đau, với bậc A-la-hán thì đã đoạn trừ mọi khổ đau.

  (苦者. 謂初見諦所斷眾苦作苦邊者. 謂阿羅漢所斷眾苦).

Luận Du-già đã giải thích rõ ràng như vậy, thế nhưng ở trong kinh thì điều này được thể hiện rất mực cô động. Tạp A-hàm, kinh số 109 đã chứng tỏ điều đó:

Này các tỳ-kheo! Bậc kiến đế thì mọi đau khổ sẽ được đoạn trừ

(諸比丘!見諦者所).

Tạp A-hàm, kinh số 394, 748 có nội dung liên hệ với kinh 109 vừa nêu.

Kinh Tương Ưng Bộ (13.2-ii.134) cũng khẳng định điều tương tự:

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với bậc Thánh đệ tử đã chứng được kiến cụ túc, đối với người đã chứng được minh kiến, cái này là nhiều hơn, tức là khổ đã được đoạn tận, đã được diệt tận; ít hơn là khổ còn lại. Không phải một trăm lần, không phải một ngàn lần, không phải một trăm ngàn lần, có thể sánh bằng khi so sánh với khổ uẩn trước đã được đoạn tận, đã được diệt tận, tức là bảy lần nhiều hơn.

Như vậy lợi ích lớn thay, này các Tỷ-kheo, là pháp minh kiến; như vậy lợi ích lớn thay là chứng đắc pháp nhãn! (HT. Thích Minh Châu, dịch).

(Evameva kho, bhikkhave, ariyasāvakassa diṭṭhisampannassa puggalassa abhisametāvino etadeva bahutaraṃ dukkhaṃ yadidaṃ parikkhīṇaṃ pariyādiṇṇaṃ; appamattakaṃ avasiṭṭhaṃ. Neva satimaṃ kalaṃ upeti na sahassimaṃ kalaṃ upeti na satasahassimaṃ kalaṃ upeti purimaṃ dukkhakkhandhaṃ parikkhīṇaṃ pariyādiṇṇaṃ upanidhāya, yadidaṃ sattakkhattuṃparamatā. Evaṃ mahatthiyo kho, bhikkhave, dhammābhisamayo; evaṃ mahatthiyo dhammacakkhupaṭilābho’’ti.

Như vậy, có thể nói rằng, chánh tận khổ () là cách dịch sát văn Pāli sammā dukkhakkhaya. Ở đây, chánh (- sammā): hoàn toàn; tận (-khaya): đoạn trừ, dứt trừ và khổ (-dukkha): khổ đau. Và do vậy, cú ngữ chánh tận khổ () thì nên chăng được chuyển dịch là: đoạn tận mọi khổ đau.

Điều cần lưu ý, cú ngữ chánh tận khổ () trong ngữ cảnh là bậc A-la-hán thì mang nghĩa là đoạn tận mọi khổ đau. Trong trường hợp là bậc Kiến đế, tức ở quả vị Dự lưu thì chánh tận khổ () tuy cũng được dịch là đoạn tận mọi khổ đau nhưng không được hiểu ở thì hiện tại.  Vì lẽ, bậc Dự lưu thì chỉ mới đoạn trừ ba kiết sửthân kiến, nghi, giới cấm thủgiảm thiểu ba căn bản phiền não tham, sân, si. Vì phiền não vẫn còn nên khổ đau vẫn chưa dứt. Do vậy, cú ngữ chánh tận khổ () trong trường hợp Kiến đế, nói theo kinh Tăng Chi Bộ (A.5.2); (A.7.63); (A.9.3)… luôn gắn liền với thuộc tính dẫn đến (gāminiyā) việc đoạn tận mọi khổ đau (sammā  dukkhakkhayagāminiyā).

Trong quá trình xử lý văn bản Bốn bộ A-hàm và các bộ Nikāya liên quan, chúng tôi đã phát hiện những điều như đã trình bày. Lẽ tất nhiên, với khảo sát ban đầu thì rất khó có thể đạt đến nghĩa chân thực. Vì vậy, kính mong các bậc thức giả cùng quan tâm góp ý để những vấn đề vừa nêu thuận hợp với lời Phật dạy.

 

 



[1] Lưu ý rằng, trong quá trình truyền dịch, do vì lỗi biến âm hoặc ghi nhận chưa đầy đù, nên chữ sammā trong Nam phạn Pāli đôi khi được chép thành sama. Ở nghĩa này thì sama giữ vai trò là tính từ, mang nghĩa là giống nhau, bằng nhau được Hán dịch là đẳng (等). Trường hợp này có thể thấy ở kinh Tăng Nhất A-hàm (10.2): , 等方便, 等語,等行,等命, 等治,等念,等定.Điều kỳ thú là trong Bắc phạn Sanskrit thì chữ sama cũng mang nghĩa tương tự. Xem, Lankavatarasutra (kinh Lăng-già) chương thứ hai, kệ 113: udeti bhāskaro yadvatsamahīnottame jine./ tathā tvaṃ lokapradyota tattvaṃ deśesi bāliśān ./113/ (Như ánh mặt trời chiếu chúng sinh./ Chẳng phân ưu tú hay hạ liệt./ Người là ngọn đèn soi thế gian./ Hãy vì kẻ ngu thuyết Chân Thực! (Huỳnh Ngọc Chiến, dịch).

[2] Nguyên tác tác (作): bắt đầu (始也).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8814)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9327)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11502)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7606)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12333)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143735)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6973)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11895)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8634)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19982)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9295)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10838)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13612)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11475)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9396)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14488)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7283)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32526)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13149)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21027)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39172)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7167)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8987)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6763)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9791)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9496)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8059)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11832)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16186)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9636)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12280)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8827)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15594)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8039)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17875)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8684)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8339)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10560)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15880)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17540)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7955)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13050)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8067)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8635)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9813)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10396)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23312)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19404)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10097)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8301)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24225)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8875)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8496)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8039)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17786)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9531)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8223)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24401)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24734)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8426)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant