Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

08 Tháng Bảy 202019:56(Xem: 6117)
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác 

Thích Trung Hữu


Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến một số người băn khoăn không biết Đức Phật ngày xưacạo tóc như những Tăng Ni khác hay không.


Theo kinh điển thì Đức Phật cũng mang hình thức “đầu tròn áo vuông”. Bài viết này xin được nêu ra một số bản kinh để chứng minh cho điều này.

Kinh Ambattha (A-ma-trú) thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn đang du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la), và đến tại một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Icchānankala. Bà-la-môn Pokkharasàdi trong làng nghe đồn Sa-môn Gotama là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên muốn đến yết kiến. Ông bèn sai đệ tử là thanh niên Ambattha đi đến gặp Đức Thế Tôn để tìm hiểu xem Ngài có được tốt đẹp như lời đồn không. Khi gặp Thế Tôn, thanh niên Ambattha đi qua đi lại, thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Thế Tôn đang ngồi. Thấy vậy, Thế Tôn nói với thanh niên Ambattha:

- Có phải, đối với các bậc Bà-la-môn Trưởng lão, đứng tuổi, các bậc giáo sư và Tổ sư, ngươi cũng nói chuyện như vậy, như ngươi đã đi qua lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi, hay đứng lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi?

- Không phải vậy, này Gotama. Phải đi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đi. Phải đứng mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đứng. Chỉ với những vị Sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân của bà con ta, thì ta mới nói chuyện như vậy, như với ngươi, Gotama(1).

Kinh Sangārava thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala. Lúc bấy giờ, một nữ Bà-la-môn tên Dhananjāni (Đa-na-xa-ni) có lòng tín thành Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ Bà-la-môn khi bị trượt chân, thốt lên ba lần cảm hứng ngữ: “Đảnh lễ Đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Thanh niên Bà-la-môn tên Sangàrava là người tinh thông ba tập Veda, nghe nữ Bà-la-môn Dhananjāni nói như vậy liền tức giận nói: “Nữ Bà-la-môn Dhananjāni này thật là hạ liệt, vì rằng trong khi các Bà-la-môn đang còn sống lại nói lời tán thán Sa-môn trọc đầu ấy”(2).

Kinh Dhananjāni kể rằng: Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá). Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn Dhananjāni, có lòng tín thành đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi bưng cơm cho chồng đã hứng khởi thốt lên ba lần lời cảm hứng: “Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Nghe nói vậy, Bà-la-môn nói với nữ Bà-la-môn Dhananjāni: “Như vậy, trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc đầu ấy”(3).

Kinh Sundarika kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja làm lễ cúng dường lửa. Rồi Bà-la-môn sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng thọ món ăn cúng tế còn lại này?”. Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm liền tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn. Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu. Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Đầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui”.(4)

Kinh Khomadusa kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn tên là Khomadussa. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào thị trấn Khomadussa để khất thực. Lúc bấy giờ các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa đang tụ họp tại hội trường để giải quyết một vài vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột. Rồi Thế Tôn đi đến hội trường ấy. Các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa thấy Thế Tôn từ xa đi đến, bèn nói: “Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai?”.(5)

Qua những bài kinh trên, chúng ta thấy rằng hình ảnh Đức Phật với đầu được cạo trọc là một hình ảnh bình thường trong mắt mọi người lúc bấy giờ. Kinh Giới phân biệt kể rằng: Tôn giả Pukkusati một lần tình cờ gặp Đức Thế Tôn tại nhà thợ gốm Bhaggava nhưng vẫn không biết đó là Thế Tôn: “Này Tỷ-kheo, trước đây ông đã thấy bậc Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, ông có nhận ra được không? - Thưa Hiền giả, trước đây tôi chưa từng thấy bậc Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không nhận ra được”.(6) Điều đó cho thấy rằng về mặt hình tướng, Đức Phật cũng giống như những tu sĩ Phật giáo khác. Mặc dù Đức Phật có tướng tốt nhục kế trên đỉnh đầu nhưng đó có thể là bởi đỉnh đầu của Ngài chỉ hơi nhô cao lên một chút thôi, chứ không phải một búi tóc cao, to thường thấy ở các hình tượng hay tranh ảnh về Ngài. Nếu Đức Phật để tóc một cách đặc biệt như những hình tượngchúng ta thờ ngày nay, chắc chắn Tôn giả Pukkusati vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là Đức Phật.


Không chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cạo tóc, hình thức “đầu tròn áo vuông” còn là truyền thống của ba đời chư Phật. Kinh Ghaṭīkāra ghi rằng: Thuở xưa vào thời Đức Phật Kassapa (Ca-diếp) có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra. Thanh niên Jotipāla là người bạn chí thân của thợ gốm Ghaṭīkāra. Vì muốn cho bạn mình được lợi ích nên thợ gốm Ghaṭīkāra rủ thanh niên Jotipāla đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, nhưng thanh niên Jotipāla không có lòng tin và nói với thợ gốm Ghaṭīkāra rằng: “Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?”.(7)

Nếu Đức Phật cũng cạo tóc, cũng “đầu tròn áo vuông” như những Tăng Ni khác thì tại sao các nghệ nhân, họa sĩ khi tạo hình tượng của Ngài lại có búi tóc nhô cao như vậy? Đó là vì khi tạo hình Đức Phật, người ta muốn khắc họa nổi bật, thể hiện rõ nét tướng nhục kế và tướng tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải của Đức Phật để ai nhìn vào đều có thể biết được Ngài có những tướng đó. Đây là một sự “cách điệu hóa” được phép sử dụng trong lĩnh vực nghệ thuật nhằm nhấn mạnh hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó của đối tượng nghệ thuật. Cùng ý nghĩa này, ta thấy các nghệ nhân thường hay vẽ một vòng hào quang bao quanh đầu Đức Phật hay các vị Bồ-tát, trong khi hầu hết người thường đều không thể nhìn thấy hào quang.


Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, sau khi vượt thành Ca-tì-la-vệ, Ngài đã cắt tóc xuất gia, vậy thì không lý nào sau khi thành đạo Ngài lại để tóc. Khi đắc đạo, hóa độ đệ tử, thành lập Tăng đoàn, Thế Tôn và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng đều cạo tóc. Nhân đây người viết cũng mạn phép xin có một ý kiến nhỏ như sau. Mỗi nửa tháng Tăng Ni đều cạo tóc một lần vào ngày 14 và 30 âm lịch, trước khi làm lễ sám hối và bố-tát, đây là quy định của Tăng đoàn từ xưa đến nay. Nhưng gần đây chúng tôi thấy rằng một số Tăng Ni rất tùy tiện trong việc cạo tóc. Họ muốn cạo khi nào thì cạo chứ không cần đúng ngày quy định. Có người mỗi tuần cạo một lần. Có người trước khi dự đám xá hay lễ lộc gì thì cạo tóc… cho đẹp (do vậy mà nhìn vào một buổi lễ người ta thấy chư Tăng Ni có người tóc dài có người tóc ngắn rất không thuận mắt). Chúng ta nên biết rằng việc cạo tóc đối với người tu không hề giống như người ngoài đời hớt tóc. Hớt tóc thì khi nào thích thì hớt và hớt kiểu gì cũng được. Nhưng cạo tóc là một pháp tu, cạo tóc không phải để cho sạch, cho đẹp mà là để “hủy hình” nhằm trừ bỏ tham ái. Chúng ta phải cạo tóc đúng nửa tháng là để giữ cái “đạo thường”, không nôn nóng, không giải đãi, không rơi vào hai cực đoan bất cập và thái quá. Nếu chúng ta không hiểu được những điều này thì hình thức “đầu tròn áo vuông” có lẽ không còn ý nghĩa gì nhiều nữa. 
 
Thích Trung Hữu
_______
(1) Kinh Trường bộ, kinh A-ma-trú số 3.
(2) Kinh Trung bộ, kinh Sangàrava số 100.
(3) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(4) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(5) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ thứ hai.
(6) Kinh Trung bộ, kinh Giới phân biệt số 140.
(7) Kinh Trung bộ, kinh Ghaṭīkāra số 81.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3497)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4523)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4578)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7351)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2970)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4229)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3690)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5069)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4129)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5345)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4538)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3561)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4396)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3879)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3844)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4647)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4829)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3655)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4593)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4563)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4302)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4498)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7227)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5620)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5494)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5624)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant