Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

14 Tháng Tám 202016:00(Xem: 3974)
Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay
Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

Thích Trung Định


Sự Buông Xuống Sau Cùng

            Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải. Niềm tin vào nhau đang bị thách đố, sự kỳ thị phân biệt ngày thêm trầm trọng. Trong bối cảnh này, nhiều giải pháp mang tính hòa giải giữa các nhà lãnh đạo đã được bàn thảo, những cuộc gặp gở song phương cũng như đa phương cũng được thực hiện để đưa đến sự thống nhất các phương thức hành động, nhằm xây dựng một thế giới hòa bình, hạnh phúcthịnh vượng. Tuy nhiên, những nỗ lực hòa giải đó vẫn chưa giải quyết một cách trọn vẹn, bởi còn đó nhiều vấn đề nan giải, hệ lụyloài người đang gánh chịu. Khi mà lòng người còn đầy dẫy tham lamích kỷ, và thù hận thì những nỗ lực trên cũng không đưa đến một kết quả mỹ mãn. Trong ý nghĩa đó, dưới góc nhìn Phật học, chúng tôi muốn đề cập đến một Ý tưởng của Phật giáo có thể đưa đến việc xây dựng một thế giới hòa bình, hạnh phúc bền vững.

Theo quan điểm của Phật giáo, thế giới này có hòa bình hay chiến tranh đều tùy thuộc vào chính chúng ta ở mọi thời điểm. Tình hình không phải là vô vọngvượt quá tầm tay. Nếu chúng ta không làm, thì ai sẽ làm? Hòa bình hay chiến tranh đều do chúng ta quyết định. Mục tiêu cơ bản của Phật giáo là hòa bình, không chỉ hòa bình trong thế giới này mà còn hòa bình trong mọi thế giới. Đức Phật dạy rằng, bước đầu tiên trên con đường dẫn đến hòa bình là hiểu được quan hệ nhân quả của hòa bình. Khi chúng ta hiểu nguyên nhân mang đến hòa bình, khi đó mới có những định hướng đúng cho những nỗ lực của mình. Một ví dụ điển hình cho giải pháp hóa giải chiến tranh đó là: nồi súp trên bếp lửa. Khi nồi súp đang trên bếp lửa, thì dù chúng ta có khuấy mạnh nồi súp đang sôi trên lửa thì món súp sẽ không trở nên nguội. Chỉ khi chúng ta lấy nồi ra khỏi ngọn lửa, nó sẽ tự làm nguội, và sự khuấy động của chúng ta sẽ đẩy nhanh quá trình làm nguội. Khuấy làm cho súp nguội, chỉ khi chúng ta mang nồi súp ra khỏi lửa, đó là phương cách tốt nhất, hiệu quả nhất trong việc giải quyết các vấn đề. Nói cách khác, chúng ta có thể thực hiện nhiều hành động hữu ích trong việc tìm kiếm hòa bình. Nhưng nếu chúng ta không giải quyết các vấn đề cơ bản trước tiên, thì mọi hành động khác sẽ trở nên vô ích.

Đức Phật dạy rằng tâm thanh tịnh dẫn đến lời nói và hành động hòa bình. Tâm bình thế giới bình, tâm an thế giới an. Nếu tâm của chúng sinh bình an, thế giới sẽ được bình an. Vậy thì những ai có tâm trí hòa bình? Việc tìm kiếm số người thánh thiệntâm trí của họ thật sự vĩnh viễn trong hòa bình thì như đếm các ngón tay trên bàn tay. Quá ít. Nếu chúng ta chờ tất cả chúng sinh trên thế giới trở thành hiền nhân, thì cơ hội nào để có một thế giới hòa bình? Ngay cả khi tâm của chúng ta không hoàn toàn yên bình, liệu có khả năng nào làm giảm mức độ bạo lực trên thế giớithành công trong việc giảm bớt những cơn gió của chiến tranh?

Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về tầm nhìn của Đức Phật về thế giới, bao gồm cả quan hệ nhân quả của các hoạt động của nó. Sau đó, trong bối cảnh này, chúng ta có thể theo dõi nguyên nhân của chiến tranh. Khi các nguyên nhân được xác định, những đề xuất của Đức Phật được đề cập, chúng ta có thể thảo luận vấn đề. Cuối cùng, phát triển thành một khung lý thuyết Phật giáo để hiểu bản chất của vấn đềgiải pháp của nó. Chúng ta có thể cố gắng áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong việc tìm kiếm các ứng dụng cụ thể mà có thể thực hành vào cuộc sống hàng ngày.

MỘT SỐ LỜI KHUYÊN THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

Đức Phật dạy rằng, mọi hình thức của cuộc sống đều thuộc cùng một nguồn tâm linh cơ bản, mà Ngài gọi là bản tánh giác ngộ hay Phật-tánh. Ngài không thừa nhận bất kỳ sự phân chia thiết yếu nào trong đời sống tâm linh của con người và các hình thức khác của cuộc sống. Thực ra, theo giáo lý của Phật giáo, sau khi chết, con người sẽ được tái sinh. Có thể tái sinh vào cõi người hoặc có thể trong cõi thú hay trong các cõi khác. Tương tự như vậy, động vật trong một số trường hợp, được tái sinh làm con người. Tất cả chúng sinh được nhìn thấy như đi qua chu kỳ bất tận của bánh xe luân hồi sanh tử. Họ được sinh ra, họ già đi, bệnh tật và cái chết. Họ được tái sinh, già đi, bị bệnh và chết đi, triền miên bất tận trong kiếp trầm luân mà không có hồi kết. Chỉ khi nào ngọn lửa của vô minh, tham ái chấm dứt thì tiến trình sanh tử luân hồi chấm dứt, khổ đau chấm dứt. Học thuyết luân hồi dưới cái nhìn của duyên khởi cho chúng ta thấy mọi hành động tạo tác của mình đều đưa đến kết quả. Con người phải chịu tránh nhiệm về chính những hành động của mình tạo ra. Hành động thiện lành sẽ đưa đến quả lành và ngược lại. Do vậy, Phật giáo chú trọng vào vấn đề nghiệp và sự chuyển nghiệp.

NGHIỆP: QUY LUẬT CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ

Điều gì quyết định cách mà một chúng sanh hữu tình được tái sinh? Đó chính là nghiệp. Cho dù chúng sanh đó có được một cơ thể của con người, dù là nam hay nữ, hay là của một con vật hay một dạng sống nào khác đều là kết quả của nghiệp. Cho dù bạn có thân thể khỏe mạnh hay ốm yếu, dù bạn thông minh hay ngu ngốc, cho dù gia đình bạn giàu hay nghèo, cho dù cha mẹ bạn từ bi hay cứng rắn - tất cả đều do nghiệp lực chi phối. Kinh dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy.”

Karma là một từ tiếng Phạn có nguồn gốc và ý nghĩa là ‘tạo tác’. Nó đề cập đến hoạt động tinh thần, lời nóithể chất - như được điều chỉnh bởi các mô hình phức tạp của nhân quả. Có hai loại nghiệp cơ bản: biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp là nghiệp riêng của cá nhân, không giới hạn trong một đời. Những gì bạn đã làm trong cuộc sống quá khứ sẽ xác định tình trạng của bạn trong cuộc sống hiện tại. Nếu bạn đã làm những việc tốt trong kiếp trước, kết quả sẽ là một sự tái sinh tốt lành. Nếu hành động của bạn trong cuộc sống quá khứ chủ yếu là xấu, tình hình của bạn trong hiện tại sẽ là bất hạnh. Nếu trong đời này bạn hành động giống như một con vật hơn là một con người, sự tái sinh tiếp theo của bạn sẽ là một con vật.

Cộng nghiệp được dùng để chỉ mối quan hệ giữa chúng ta với những người khác, sự vật hiện tượng, và môi trường chung. Cộng nghiệp là nghiệp chung của cả một cộng đồng, khu vực, đất nước. Một thể loại nào đó của chúng sinh sống ở một vị trí nhất định và có khuynh hướng cảm nhận môi trường của họ theo cùng một cách, bởi vì tình huống chung đó là kết quả của những hành động trước đây của họ.

Giáo lý nghiệp lực trong Phật giáo không phải là định nghiệp. Thay vào đó là một học thuyết về trách nhiệm cá nhân cấp tiến. Mặc dù tình hình hiện tại của bạn trong từng khoảnh khắc được xác định bởi những hành động trong quá khứ, hành động của bạn trong thời điểm hiện tại, trong hoàn cảnh hiện tại, có thể hoàn toàn không bị điều chỉnh và, do đó, hoàn toàn tự do. Đúng là bạn có thể phản ứng một cách vô thức theo những điểm mạnh của các kiểu thói quen khác nhau, nhưng đó không phải là trường hợp cố định. Tiềm năng để bạn hành động một cách chánh niệmtự do luôn ở đó. Điều này phụ thuộc vào bạn bởi bạn có sự lựa chọn và quyền quyết định để thực hiện hành động của mình. Nhận thức này là khởi đầu của sự phát triển tâm linh thực sự.

Đức Phật dạy rằng nguyên nhân căn bản của mọi đau khổvô minh. Sự thiếu hiểu biết cơ bản về con người và sự vật là sự thất bại lớn của chúng ta. Ảo tưởng về cuộc sống, xác định cách thức mà chúng ta nhìn nhận về thế giới theo chiều hướng chủ quan, để rồi hành động theo chiều hướng ấy là việc làm mù quáng. Ảo giác về bản thânnguyên nhân của tất cả mọi đau khổ. Chúng ta muốn bảo vệ bản thân khỏi những nguy hiểm trong dòng chảy liên tục của cuộc sống. Chúng ta muốn tránh khỏi sự thay đổi của bản thân, trong khi đó trên thế giới không có gì là không bị thay đổi.

Khuynh hướng ích kỷ là một bản tính tự nhiên trong cuộc sống. Tính ích kỷ làm cho chúng ta bị say đắm bởi ham muốnchấp thủ. Khi không được thỏa mãn, chúng taxu hướng trở nên tức giận và hận thù. Những điều kiện tình cảm cơ bản này bao trùm tận trong chiều sâu của tâm trí và tách chúng ta khỏi hai yếu tố trí tuệtừ bi, suy nghĩ và hành động sau đó phát ra từ những quan điểm hời hợt.

CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH

Nguyên nhân của chiến tranh là quá nhiều. Những gì chúng ta thảo luận ở đây là những gì Đức Phật xem là cơ bản nhất, ngọn lửa dưới nồi súp đang sôi.

Chiến tranh không phải là một cái gì đó trừu tượng. Chiến tranh được tiến hành giữa một nhóm cá nhân và một nhóm khác. Lý do chiến tranh cũng không trừu tượng. [Chúng ta chưa thấy có một cuộc chiến tranh nào được bắt đầu và được chỉ đạo theo các mô hình logic được lập trình trong một máy tính.] Đó là những cá nhân quyết định chiến tranh. Ngay cả khi chiến tranh toàn cầu, sự khởi đầu của nó có thể được truy trở lại các quyết định của các cá nhân. Và như vậy trước khi chúng ta nói về chiến tranh toàn cầu, chúng ta hãy nói về cuộc chiến về mức độ của cá nhân.

Chiến tranh bắt đầu bởi vì người dân của một quốc gia, hoặc ít nhất là người cai trị của họ, lòng ham muốn chưa được thỏa mãn - họ tham lam vì lợi ích hay giàu có (ví dụ tham vọng kinh tế) hoặc quyền lực, hoặc họ tức giận hay hận thù. Hoặc là ham muốn của họ đã bị cản trở hoặc niềm tự hào của họ, cảm giác của họ về bản thân, đã bị xúc phạm. Điều này cũng có thể biểu hiện như sự kiêu ngạo chủng tộc hoặc quốc gia. Họ cảm thấy một cách sai lầm rằng câu trả lời cho các vấn đề, mà chủ yếu là trong tâm trí của chính họ, vấn đề thái độ, có thể được tìm kiếm bên ngoài, thông qua việc sử dụng vũ lực.

Sự ích kỷ thù hận sẽ dẫn đến chiến tranh. Sự chết chóc thảm khóc của con ngườiđộng vậtnghiệp ác gây nên nguồn gốc của chiến tranh. Kinh Phật dạy, hận thù diệt hận thù đời này không thể có, từ bi diệt hận thùđịnh luật ngàn thu.

ỨNG DỤNG THỰC TIỄN

Tầm nhìn về một thế giới hòa bình và phương pháp hòa hợp hòa giải là sẵn có trong giáo lý Phật giáo. Vậy làm thế nào để có một nền hòa bình hoàn toàn trong thế giới của chúng ta? Đó không phải là tưởng tượng không thực tế? Bây giờ là lúc đến để phác thảo một số bước cụ thểthực tế có thể được thực hiện theo định hướng làm cho nó thành hiện thực. Ứng dụng này có thể thực hiện qua bốn bước như sau:

Bước một: Nếu nghiệp giết người là ngọn lửa bên dưới nồi súp, bằng cách giảm nó, chúng ta trực tiếp tác động đến sự hỗn loạn của bạo lực và chiến tranh. Chúng ta cần phải giảm bớt bầu không khí giết chóc và bạo lực, cả trong xã hội và trong cuộc sống. Mỗi người trong chúng ta có thể giảm mức độ giết chóc trong cuộc sống của chính mình bằng hành động đơn giản, ăn chay.

Đối với những người vẫn không nhìn thấy các mối quan hệ hợp lý, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày chúng rõ ràng hơn. Đời sống con người không phải không có khác biệt về chất lượng theo giáo lý của Phật giáo. Cũng giống như khi một con người bị giết, một con vật phản ứng quá thường với cái chết của nó với những suy nghĩ oán giận, hận thùtrả thù. Trong khi nó đang hấp hối, những suy nghĩ hoặc cảm xúc này độc hại ảnh hưởng lên xác thịt của nó. Sau khi nó chết, ý thức bị suy yếu của nó tiếp tục phát đi những ý nghĩ oán giận, hận thùtrả thù cho những kẻ giết. Hãy suy nghĩ về hàng tỷ con bò, lợn, gà và cừu bị giết để tiêu thụ mỗi năm chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Những người bạn đã vượt qua các bãi giết mổ trên xa lộ liên tiểu bang gần Coalinga, California, có lẽ đã nhận thấy không chỉ mùi hôi thối mà còn là đám mây đen tối sợ hãi và bạo lực treo trên khắp nơi. Bầu không khí tinh thần chung của toàn bộ quận đó dày đặc với những suy nghĩ về bạo lực mà những suy nghĩ như vậy trong tâm trí của chúng ta đều có thể dễ dàng cộng hưởng.

Một trong những vấn đề của xã hội hiện đạinghiệp lực chúng ta tạo ra thường là gián tiếp và không rõ ràng, mặc dù nó có thể khá mạnh mẽ. Chúng ta không chịu trách nhiệm về cái chết của các loài động vật khi chúng ta mua thịt trong siêu thị hơn là tự giết chúng. Chúng ta không chịu trách nhiệm về sự nhiễm độc môi trường của con người bằng hóa chất mà chúng ta đổ xuống cống rãnh hoặc bởi các ngành công nghiệp, hoặc sản phẩm chúng ta mua, hơn là chúng ta đã thêm chất độc vào thức ăn. Vì vậy, chúng tathể không trực tiếp nhận thức được những cách thức mà chúng ta có thể cung cấp hỗ trợ cho nhiều cuộc xung đột và chiến tranh trên toàn thế giới. Tất nhiên, làm điều gì đó sai trái tuy biết rõ điều đó là sai nhưng vẫn làm thì còn tồi tệ hơn là làm điều đó trong sự thiếu hiểu biết. Tuy nhiên, sự ngu dốt không tha thứ cho chúng ta về sự đổ lỗithờ ơ.

Bước hai: Kể từ khi chiến tranh có thể bắt đầu khi mức độ bạo lực chung trong dân số đạt đến cực điểm và có thể biểu hiện trong cuộc nội chiến hoặc được đưa vào chiến tranh nước ngoài. Bất cứ điều gì chúng ta có thể làm để giảm mức độ bạo lực chung trong dân số chắc chắn là hữu ích nhất. Một trong những phương tiện truyền thông chính của bạo lực trong xã hội chúng ta là truyền hình. Hãy tắt TV của bạn - vĩnh viễn.

Nếu còn tồn tại những vấn đề này thì làm thế nào có được hòa bình thế giới? Từ khi còn nhỏ, chúng ta được dạy rằng bất bạo độnggiải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề, bất bạo lực là một cách được xã hội chấp nhận và được xã hội chấp thuận đối phó với các vấn đề cả cá nhân và liên cá nhân. Hãy Tắt TV đi!

Bước ba: Bằng cách liên tục chú ý đến những suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình và liên tục cố gắng thanh lọc chúng. Chúng ta có thể trở thành một phần của lực lượng hòa bình hơn là một phần của lực lượng chiến tranh. Những lời dạy về nghiệp lực cho chúng ta biết rằng dù cho nguyên nhân là gì đi chăng nữa, bất kể ý tưởng của chúng ta đúng như thế nào, nếu chúng được kèm theo sự tức giận và căm thù, chúng sẽ chỉ tạo thêm sự tức giận và oán ghét. Nếu tâm trí của chúng ta tràn ngập với những cảm xúc của chiến tranh, chúng ta sẽ giúp cho nguyên nhân của chiến tranh, bất kể nguyên nhân cao đến thế nào. Giáo lý Phật giáo về nghiệp lực cho thấy rõ ràng rằng, một đời sống đạo đức cơ bản là điều kiện tiên quyết cần thiết để loại bỏ tâm trí của chúng ta về những cảm xúc tiêu cực, để biến chúng thành lòng từ bi vô ngã cho tất cả mọi người. Có rất nhiều nỗ lực vị thachúng ta có thể tự mình làm để làm giảm đi các căng thẳng xung đột. Nhưng đều cần thiết là nên nhớ luôn luôn chú ý đến thái độ tinh thần của chính mình. Nếu không như vậy thì dù có cố gắng đến mức nào thì cũng có thể vô tình châm thêm sự xung đột.

Làm thế nào để thay đổi thái độ tinh thần của chính mình; làm thế nào để loại bỏ trong tâm trí về những cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ gây ra độ đục trong tâm trí của chúng ta? Một phần của con đường Bồ tát bao gồm thực hành đưa ra như một thuốc giải độc cho ham muốn, tham lam, keo kiệtthèm muốn; thực hành kiên nhẫn như một thuốc giải độc cho sự tức giận, và thực hành trí tuệ như một thuốc giải độc cho sự ngu xuẩn.

Bước Bốn: Chúng ta nên làm việc trên sự mở rộnghệ thống từ bi đối với người khác. Từ tâm trí, đến lời nói và hành động, chúng ta có thể làm việc để tạo lòng từ bi cho những người gần gũi nhất, các thành viên của gia đình, và dần dần mở rộng lòng từ bi đến cộng đồng, quốc gia, và toàn bộ thế giới.

Nhiều người trong số các bạn có thể thất vọng về những đề xuất này. Có lẽ bạn đang tìm kiếm một cái gì đó thú vị hơn hoặc kích thích. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng bạn sẽ nhận ra rằng có một số dấu hiệu cho thấy những ý tưởng Phật giáo này thực sự hiệu quả. Vua Asoka, hoàng đế Mauryan của Ấn Độ, ông đăng quang năm 268 TCN, và trở thành vị vua Phật tử khi ông chứng kiến cảnh chết chóc ghê rợn sau hậu quả của cuộc chinh phục đẫm máu của ông về xứ Kalinga. Sau đó, ông đã cấm bất kỳ hình thức giết hại và khuyến khích thực hành hành động nhân đạo cho tất cả mọi người và cả động vật. Người Tây Tạng khát máu và hiếu chiến trước khi chuyển sang Phật giáo. Tương tự như vậy, hàng xóm của họ là người Mông Cổ, đặc biệt là quân đội Ghengis Khan, khủng bố nhiều dân tộc, từ Trung Quốc đến Việt Nam. Thật khó để tìm thấy những người khốc liệt và khát máu hơn. Các nhà truyền giáo Phật giáo sau đó đã biến những người Mông Cổ thành một trong những dân tộc hòa bình nhất Châu Á. Phật tử chưa bao giờ ủng hộ chiến tranh và chưa bao giờ xử phạt ý tưởng về chiến tranh tôn giáo. Lý tưởng của Bồ tát (một người chứng ngộ đã cống hiến bản thân mình cho sự giác ngộ của tất cả chúng sinh) là tự nguyện trở lại, dấn thân vào đời, đến thế giới của chúng ta cảm nhận về sự đau khổ để dạy ‘Con đường bình an nội tâm vĩnh viễn’, đó là cách duy nhất để có hòa bình thực sự trên thế giới. Cho dù đối với chúng ta hay cho những hiền nhân vĩ đại trên thế giới, hòa bình chỉ có thể được mang đến cho thế giới một ý nghĩa đặc biệt và thiết yếu cho cuộc sống. Chỉ trên cơ sở đó, hành động của chúng ta kiến tạo cho một nền hòa bình, và hãy cùng nhau thực hiện một hành động ý nghĩa này để mang đến hiệu quả tốt đẹp.

Việc đưa khái niệm về Niết bàn vào phương Tây từ những ngày đầu cũng có thể gây ra sự hiểu lầm về hòa bình như sự tồn tại tối thượng trong Phật giáo. Trong một số tông phái Phật giáo, giải thích trạng thái của Niết bàn tương đương với sự an lạc tối thượng (Jayatilleke, 1969), hoặc nó được coi là một giải pháp tối thượng cho các xung đột (Galtung, Jacobsen, & Brand-Jacobsen, 2002). Vì Niết bàn là cực kỳ khó khăn để đạt tới gần như tất cả Phật tử. Phương trình (peace = nirvana) ám chỉ một quy ước từ xa, không thể đạt được mà sẽ không có lợi cho bất kỳ nỗ lực hòa bình hiện tại nào. Nhưng hòa bình có thể đạt được khi chiến tranh hận thù chấp dứt. Và điều đó nằm trong tầm tay của chúng ta. Cùng một dòng suy nghĩ, giải thích “sự tập trung đúng đắn” (chánh định một chi phần của Bát Chánh Đạo) vì hòa bình sẽ dễ bị hiểu nhầm là người ta chỉ có thể an trụ trong thiền định. Hai trường hợp này sẽ kêu gọi những nỗ lực lớn hơn trong việc cố gắng dịch các khái niệm Phật giáo thành hòa bình. Các trạng thái để đạt được như Niết bànchánh định là cấp độ cao, cần phải có sự thực hành nghiêm mật. Trong khi đạt được hòa bình chỉ cần cá nhân kiểm soát lại hành vi, tâm ý của mình. Chỉ cần nội tâm an bình, thì thế giới an bình. Chúng ta cần nhân cấp độ an bình của từng cá nhân để có một thế giới hòa bình thật sự. Do đó, cần chung tay vì một sự bình yên thật sự là trách nhiệm của mỗi cá nhân. Chung tay vì hòa bình cho nhân loạinhiệm vụ của mọi người. Phật giáo cung ứng nhiều giải pháp để xây dựng cho hòa bình thế giới.

Tóm lại, có rất nhiều phương pháp để thực hiện hòa bình một cách thực sự trong Phật giáo cung ứng cho nhân loại. Đạo đức Phật giáo và các giáo lýbản như giới thiệu trên là nền tảng pháp lý trong việc ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Phật giáo trên nền tảng phân tích nhân quả nhiều lớp sẽ tìm ra căn nguyên và cội nguồn của các mâu thuẩn xung đột. Từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu, mang lại sự an lạchạnh phúc thực sự cho cuộc đời.

Kết luận

Tôi muốn giới thiệu những ứng dụng giáo lý cơ bản của Đức Phật góp phần vào việc xây dựnggiữ gìn hòa bình trên thế giới. Từ quan điểm của Phật giáo dựa trên nguyên tắc của nguyên nhânphụ thuộc, dựa trên nguyên tắc xung đột và bạo lực, và các phương thức giao tiếp nhằm tham gia vào quy trình mở trong các tổ chức xã hội để thông báocung cấp các đường dẫn hữu ích cho các phương pháp tiếp cận lý thuyết và các ứng dụng dựa trên nghiên cứu hòa bình. Đặc biệt, các kỹ thuật quan sátphản chiếu của Phật giáo được phát triển trong hơn 2,500 năm có thể bắt đầu cho một “sự giải phóng nội tại.” (Thurman, 1998) Trong số những người chiến đấu cũng như các nhà hoạt động vì hòa bình cần xem xét lại cho phù hợp với các nguyên nhânhành vi của riêng mình. Giá trị đích thực của bất bạo động, từ bilòng vị tha được ủng hộ bởi Phật giáo cũng sẽ truyền cảm hứng cho tất cả mọi người trên con đường hòa bình. Do ý chí, sự thấu hiểu, sự kiên trì và sự sáng tạo chủ động để nhận ra khả năng vô hạn tiềm ẩn trong thực tại có nguồn gốc, hòa bình, từ quan điểm của Phật giáo, là thực tế và có thể đạt được; và, nhằm tạo ra một thế giới đơn giảnnhân đạo hơn. Hòa bình là trách nhiệm của mọi người, nó cần phải được thiết lậpbảo vệ. Khái niệm và lợi ích của hòa bình cần phải được phổ biến để mọi người hiểu rõ tầm quan trọng của nó để trân quý và giử gìn.

Tài liệu tham khảo:

  1. Alexander, Jeffrey C., Berhard Giesen, Richard Munch, and Neil J. Smelser, eds. 1987.

            The Micro-Macro Link. Berkeley: University of California Press.

  1. Blumberg, Herbert H. 1998. “Peace Psychology after the Cold War: A Selective Review.”Genetic, Social and General Psychology Monograph, Vol.124, No.1, pp. 5-37.
  2. Boulding, Elise. 1992. The Underside of History: A View of Women through Time.

Newbury Park, CA: Sage.

  1. Boulding, Elise. 2000. Cultures of Peace: The Hidden Side of History. Syracuse, NY:

Syracuse University Press.

  1. Brock-Utne, Birgit. 1997. “Linking the Micro and Macro in Peace and Development

Studies. In Jennifer Turpin and Lester R. Kurtz, eds., The Web of Violence: From

Interpersonal to Global (pp. 149-160). Urbana: University of Illinois Press.

  1. Buddhist Scriptures. 1959. Translated by Edward Conze. London: Penguin.

110 The Way to Peace: A Buddhist Perspective

  1. Cabezón, José Ignacio. 1999. “The UNESCO Declaration: A Tibetan Buddhist
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6123)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9987)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7100)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7334)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6993)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9363)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5845)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7104)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6531)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6111)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7170)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14393)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20455)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9477)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7878)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8193)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7456)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9380)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7467)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7487)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7673)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9480)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8791)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7393)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7964)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7019)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7680)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9869)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8289)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8839)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7691)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8844)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8664)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8007)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9023)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9437)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8757)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8890)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7231)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9193)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8608)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7898)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9634)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10181)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8772)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8385)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7640)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9340)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7490)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15364)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7306)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8487)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12246)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7313)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11497)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8321)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8044)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7913)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8924)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7418)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant