Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niết BànGiải Thoát

22 Tháng Mười 202014:53(Xem: 4277)
Niết Bàn Là Giải Thoát
NIẾT BÀN GIẢI THOÁT

Thích Phước Triều

giac ngo

Giải thoát  nghĩa là cởi mở  những dây  ràng buộc mình  vào  một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.

Niết Bàn  (Nirvana)  của Đạo Phật không  phải là cõi thiên đàng như nhiều người lầm tưởng. Người ta thường cho rằng tu chỉ là cốt để được giải thoát khỏi cuộc đời này và khi chết, được đưa vào một thế giới đẹp đẽ, đầy đủ những thú lạc, không sợ một khổ đau nào xâm chiếm. Thế giới đẹp đẽ ấy gọi là Cực Lạc hoặc là Niết Bàn.

Thật không  có gì lầm lạc hơn nữa.

Đạo Phật chủ trương vạn vậtvô thườngvô ngã, vì thế, không bao giờ công nhận có một sự tồn tại bất biến của một thế giới, dù thế giới ấy là thế giới Cực Lạc.

Cuộc  sống  là gì? Là một dòng biến chuyển. Vì có biến chuyển  nên mới có sinh diệt thành loại; mà  còn  có sinh diệt thành loại là có thời gian. Ý  niệm về thời gian không thể nào tách biệt khỏi ý niệm biến chuyển: nếu khôngbiến chuyển, không có thời gian, thì sẽ không có sự sống.

Ta hãy tưởng  tượng thời gian ngừng hẳn lại, vạn vật im lìm biến mất, bất động… không thể nào có sự sống được. Sự tồn tại im lìm này là một cái chết hoàn toàn. Giả sử Niết Bàn là một cuộc sống đi nữa, thì cuộc sống này hẳn cũng không  phải là một cuộc sống hạnh phúc, vì đã là một cuộc sống,  tất nhiên phải  là một dòng biến chuyển, mà đã có biến chuyển là có thành hoại, có sinh diệt, có đau khổ.

Niết Bàn  không phải  là một cảnh giới, một cuộc sống, thì là gì?

Vấn đề này, lắm nhà học giả nghiên  cứu chưa đến nơi đến chốn, đã vội kết luận rằng  Niết  Bàn là một trạng thái diệt hoại hư vô. Nói như thế, tuy họ tỏ ra đã hiểu Niết Bàn không  phải là một cảnh giới Cực Lạc, nhưng họ cũng lại tỏ ra rằng họ chưa hiểu Niết Bàn là gì. Bảo Niết Bàn là diệt  hoại, hư vô, lại bảo rằng Niết Bàn là một “trạng thái” thì có nghe được không? “Trạng thái” là gì? Tạm cho là tình trạng đi. Nhưng tình trạng của cái gì? Có phải là một cái vật nào đó không? Nếu thế, cái trạng thái này cũng luôn luôn chuyển biến, vì không có cái vật nào mà không chuyển biến. Còn nếu là sự hư vô thì làm gì có trạng thái mà gọi là trạng thái diệt hoại, hư vô.

Cho nên bảo rằng Niết Bàn là một  trạng thái thì không đúng. Chữ Niết Bàn vốn là do tiếng Phạn Nirvana, có thể dịch là Diệt độ, là giải thoát. Cần có một câu giải thích để khỏi hiểu lầm. Diệt độ không có nghĩa là một sự tiêu diệt hoàn toàn thành hư vô như các học giả phương Tây lầm tưởng.  Diệt đây có nghĩa là sự chấm dứt của nhân quả nghiệp  báo. Độ có nghĩa là qua khỏi dòng mê mờ để lên bờ giác ngộ giải thoát.  Đạo Phật chủ trương rằng, sự sống của một chúng sanh là một dòng biến chuyển liên tục theo đà nhân quả tiếp nối của ngũ uẩn. Động cơ của dòng sông ấy là ham muốn, là dục vọng. Còn ham muốn, còn dục vọng, là còn sự sống, còn luân hồi sanh tử, cũng  như còn dầu và còn tim thì đèn còn cháy vậy. Khi dục vọng tiêu diệt, dòng biến chuyển liên tục của ngũ uẩn sẽ dừng lại và hết sinh diệt. Lúc bấy giờ Niết Bàn hiển hiện. Niết Bàn là sự hiển hiện của bản thể sáng suốt màu nhiệm hoặc nói cho khác hơn, là sự thể nhập vào bản thể vô biên trong sáng  của  một  chúng sanh giải thoát.

Niết Bàn có hai thứ: Niết Bàn hữu dư Y và Niết Bàn vô dư Y.

Một chúng sanh được giải  thoát, song  còn  thân mạng và còn hoàn cảnh tồn tại: sinh hoạt với thân mạng ấy và hoàn cảnh ấy mà vẫn an nhiên, giải thoát, vẫn không sợ bị vật lung lạc, kéo lôi theo đà lo sợ đau buồn. Như thế Niết Bàn hữu dư Y. Khi thân mạnghoàn cảnh hết tồn tại, thì sự thể nhập bản thể được thực hiện: Đấy là vô dư Y Niết Bàn, không  có sanh tử, không  có khổ đau, vì vô dư Y Niết Bàn không phải là cuộc sống có sinh diệt. Vô dư Y Niết Bànbản thể thường còn bất sanh bất diệt của vạn loại hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn ngữ để hình dung, trí thức để quan niệm.

 Tuy nhiên  từ Niết Bàn vô dư Y có thể hiện ra diệu dụng nhiệm màu. Hóa thân của các Đức Phật, các vị Bồ Tát đều là những biểu hiện “tùy duyên” của các bậc giải thoát an trú trong vô dư Y Niết Bàn. Ở quả vị Phật, có hai loại trí tuệ: Một loại là vô phân  biệt trí, cùng với bản thể chân như an trú, không phân biệt đối tượng và chủ thể; một loại là sai biệt trí có khả năng nhận thức các biến hiện nhiệm mầu của bản thể thường trú, tức là thế giới hiện tượng. Nhận thức như thế để hóa độ, để hoàn thành bàn nguyệt độ sanh.

Thế giới hiện tượngthế giới diệu dụng biến hóa của thế giới bản thể. Nhưng vì vô minh che lấp, chúng sanh nhìn thế giới ấy như một thế giới khổ đau, đen tối vì đã đem ác nghiệp của mình để hòa hợp vào đó hoặc nói khác hơn, vì đã có một phần nhận thức sai lạc lấm láp chủ quan đen tối. Mang một cặp kính ác nghiệp, chúng sanh nhìn thế giới hiện tượng màu nhiệm kia thành một thế giới đau thương và với ác nghiệp  mình, lăn lộn trong thế giới đau thương rất “chủ quan” ấy.

Các  vị  chứng ngộ  xưa đã từng  ca ngợi trăng nước muôn hoa là những biến hiện của bản thể, là vì họ đã lột bỏ được cặp kính vô minh đó và kinh Pháp Hoa cũng dạy rằng chim kêu hoa nở là hiện tượng màu nhiệm  của bản thể của “pháp thân” bất diệt:

Chư pháp tùng bản lai,

Thường tự tịch diệt tướng:

Xuân đáo bách hoa khai,

Hoàng oanh đề liễu thương

 

TẠM DỊCH:

Các hiện tượng xưa nay,

Bản tính thường vắng lặng:

Xuân đến trăm hoa nở,

Oanh vàng ca liễu thắm.

 

Vậy, bản  thể  của  các hiện tượng vốn là chân  như sáng suốt, không sinh diệt, là Niết Bàn.

Vậy Niết Bàn là qua bờ bên kia, là giải thoát, là chấm dứt sanh tử. Nhưng chỉ  là chấm dứt sự sanh tử  mà chủ thể sanh tửbị động. Một chúng sanh giải thoátNiết Bàn có thể an nhiên sinh hoạt trong sinh tử mà vẫn không thấy có sinh tử khổ đau, vẫn có trong tay một khả năng màu nhiệm: tự do sinh diệt, tự do an trú, tự do Niết Bàn. Khả năng ấy Đạo Phật gọi là khả năng tùy duyên hóa độ, là khả năng “tự tại”, một trong bốn đức của Niết Bàn: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Tự tại là ngã vậy.

Ở đây cũng cần giải thích chữ Phật.

Phật là gì? Phật là một bậc có khả năng viên mãn để có thể giác ngộ cho mình và cho người. Các vị Bồ Tát cũng có khả năng ấy nhưng chưa được viên mãn như Phật, nên chưa thể gọi là “giác hạnh viên mãn”.

Phật là một hóa hiện viên mãn nhất. Tốt đẹp nhứt và xứng đáng nhất của bản thể sáng suốt. Vì là một hóa hiện nên “các đức  Phật” đều là những hóa thân của Phật, chứ chưa hẳn  là Phật. Hóa thân (như cá nhân  Đức Thích Ca) thì có sanh có diệt,  chứ pháp thân, tức là Phật thì luôn luôn bất sanh bất diệt. Cũng như các lớp sóng có xuống,  có thành, có hoại, chứ bản thể của các lớp sóng là nước thì chẳng lên xuống thành vỡ bao giờ.

Vậy một chúng sanh thành Phật tức là nhập vào bản thể vô biên, hoàn toàn sáng suốt. Và từ bản thể sáng suốt ấy, từ Niết Bàn ấy, có thể hoàn toàn tự do tự tại để hóa thân, sinh hoạt, trôi nổi trong sự sinh tử biến hoại của thế giới hiện tượng mà vẫn an nhiên giải thoát, không bao giờ bị lôi cuốn theo nghiệp lực như vô lượng chúng sanh. Đến đây, ta mới hiểu được câu kinh màu nhiệm này mà mọi người đều tụng “Niết Bàn tức là sinh tử, sinh tử tức là Niết Bàn”. Quả thực, Niết Bàn không tồn tại ngoài sinh tử và chính trong sinh tử các Đức Phật  đã tìm thấy Niết Bàn.

Để  chấm dứt  bài  này, chúng ta hãy đọc một đoạn trong kinh Phạm Võng:

“Chân tướng của mọi hiện tượng là  bất sinh bất diệt, không thường cũng không  đoạn, không sinh tử cũng không Niết Bàn. Kẻ ngu si sợ hư mà không muốn đi trốn thì dù bỏ hư không mà chạy cũng không thể nào thoát được hư không. Kẻ đi tìm hư không  dù có chạy khắp đông tây nam bắc cũng không tìm thấy hư không. Những kẻ ấy chỉ biết cái DANH của hư không mà không biết được cái THỰC của hư không.

Nay có kẻ muốn  tìm Niết Bàn,  thường qua  lại trong Niết Bàn mà không biết đó là Niết Bàn, chỉ thấy toàn sinh tử phiền não: Kẻ ấy chỉ biết cái DANH của Niết Bàn mà không biết  cái  THỰC của Niết Bàn vậy.

Cho nên ta không thể bảo Niết Bàn  có ngoài sinh tử cũng không thể bảo rằng giải thoát tức là lìa bỏ cõi đời hiện tại.Chính trong hiện tại, con người phải tìm ra Niết Bàn: Con người vẫn  có thể giải thoát mà không  rời thế gian sinh diệt.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8548)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5274)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5835)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7466)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4763)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5892)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6134)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6606)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5962)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7080)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6689)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4823)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7736)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9847)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7560)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5350)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6448)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5454)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5866)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6432)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5709)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6449)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7075)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6299)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10682)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6197)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6755)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6515)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5747)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7573)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6265)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9669)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4190)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4315)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4780)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5340)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5298)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5828)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6793)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5561)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4509)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5340)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5009)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4377)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6881)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4624)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8429)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7226)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8386)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7537)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant