Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực

23 Tháng Giêng 202118:37(Xem: 4223)
Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực
Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực  

Nguyễn Thế Đăng

 
hinh phat 1

Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này: Như Lai, Như Lai tánh, Như Lai tạng, Đại Niết bàn, Pháp thân, thân thân kim cương, giải thoát, Ma ha Bát nhã, thường trụ, Thường Lạc Ngã Tịnh… Phật tánh ấy cũng là bản tâm, bản tánh, bản tánh của tâm… của tất cả chúng sanh. Kinh lặp lại nhiều lần: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

 

Phật tánhtánh Không

“Thiện nam tử! Phật tánh không sanh, không diệt, không đi, không đến; chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại; chẳng phải do nhân làm ra, chẳng phải không do nhân làm ra; chẳng phải làm, chẳng phải người làm (tác giả); chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng; chẳng phải có danh, chẳng phải không có danh; chẳng phải danh, chẳng phải sắc; chẳng phải dài, chẳng phải ngắn; chẳng phải chỗ nắm giữ của uẩn, giới, nhập. Thế nên gọi là thường.

Thiện nam tử! Phật tánh tức là Như Lai. Như Lai tức là Pháp. Pháp tức là thường. Thiện nam tử! Thường tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tất cả các pháp hữu vi đều là vô thường. Hư khôngvô vi thế nên là thường. Phật tánhvô vi, thế nên là thường. Hư không tức là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai. Như Lai tức là vô vi. Vô vi tức là thường. Thường tức là Pháp” (Phẩm Thánh Hạnh).

Phật tánhtánh Không, không sanh không diệt, không đến không đi, chẳng phải mỗi và mọi sự vật. Tánh Khôngvô tự tánh và mọi sự cũng hữu vi, vô tự tánh nên tánh Không là nền tảng vô tự tánh của tất cả mọi sự. Như thế Phật tánh cũng là nền tảng vô tự tánh của tất cả mọi sự.

Kinh nói về tánh Không của tất cả các pháp như sau:

“Phật bảo: Thiện nam tử! Tất cả các pháp, tánh vốn tự Không. Vì sao thế? Tất cả các pháp bản tánh bất khả đắc vậy.

Thiện nam tử! Tánh của sắc không thể đắc. Thế nào là tánh của sắc? Tánh của sắc chẳng phải đất, nước, lửa, gió, cũng chẳng lìa khỏi đất, nước, lửa, gió; chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng lìa ngoài xanh, vàng, đỏ, trắng; chẳng phải có chẳng phải không. Làm sao nói được sắc có tự tánh? Vì tánh chẳng thể đắc cho nên nói là Không. Tất cả các pháp lại cũng như vậy”. (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu)

Hư không tức là Phật tánh: hư không ở đây để chỉ tánh Không. Nói hư không hay tánh Không là thường bởi vì nó không bị điều kiện hóa bởi bất cứ cái gì, bất cứ không gian thời gian nào. Tánh Khôngsự giải thoát bổn nhiên, vốn có sẳn. Phật tánh là thường, tánh Không là thường, chữ thường đây để nói lên nghĩa luôn luôn là như vậy, không biến đổi, không có thể khác. Và luôn luôn như vậy, không biến đổi, không có thể khác nghĩa là luôn luôn thường trụ, luôn luôn có mặt.

Phật tánh như là tánh Không luôn luôn có mặt, nghĩa là giải thoát luôn luôn có mặt. Giải thoát ấy là giải thoát khỏi hai mươi lăm cõi hữu:

“Lại nữa, buộc niệm tư duy nghĩa là thế nào? Đó là ba Tam muội: Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô tác tam muội.

Không là đối với hai mươi lăm cõi hữu không thấy cái nào là thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi hữu không khởi mong cầu. Vô tướng là không có mười tướng: sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướng, nam tướng, nữ tướng. Tu tập ba tam muội ấy, gọi là Bồ tát buộc niệm tư duy”. (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương).

Trong tánh Không, không có hai mươi lăm cõi hữu, đó là giải thoát. Kinh nói nhiều lần thí dụ, “Không thể đóng cọc gắn vào hư không được”; hai mươi lăm cõi hữu không thể bám gắn vào hư không được.

Phật tánhtánh Không, vì thế Phật tánh vốn là giải thoát, luôn luôn thanh tịnh:

“Phật tánh chúng sanh không phải nhờ nơi văn tự rồi sau mới thanh tịnh. Vì sao thế? Vì Phật tánh vốn thanh tịnh. Tuy ở trong năm ấm, sáu nhập, mười tám giới nhưng chẳng đồng với năm ấm, sáu nhập, mười tám giới. Thế nên chúng sanh phải nên quy y Phật tánh ấy” (Phẩm Như Lai tánh)

 

Nhưng tánh Không chẳng phải là không có gì cả, một cái không trơ trụi, không có sự sống, như một cái chết tuyệt đối. Phẩm Bồ tát Sư Tử Hống, đức Phật giảng:

“Thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là Đệ nhất nghĩa Không, đệ nhất nghĩa không gọi là Trí Huệ.

Nói là Không là chẳng thấy không và bất không, thường và vô thường, khổ và lạc, ngã và vô ngã. Không là tất cả sanh tử. Bất KhôngĐại Niết bàn. Cho đến vô ngã tức là sanh tử, ngã là Đại Niết bàn.

Thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không thì chẳng gọi là Trung đạo. Cho đến thấy tất cả là vô ngã mà chẳng thấy ngã thì chẳng gọi là Trung đạo. Trung đạo gọi là Phật tánh. Vì nghĩa này nên Phật tánhthường hằng, không có đổi khác, bởi vô minh che đậy nên chúng sanh không thể thấy được.

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy ngã (chân ngã), do đây nên chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không. Vì chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không nên chẳng hành Trung đạo. Vì không có Trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh”.

Phật tánh là Không mà Bất Không, đây là Trung đạo. Hành KhôngBất Không, tức là hành Trung đạo, thì thấy được Phật tánh KhôngBất không.

“Không là tất cả sanh tử”, đây là con đường giải thoát, không còn sanh tử của bậc Thanh VănDuyên Giác. Bồ tát thì vượt khỏi cái Không, vô thường, khổ, vô ngã, để đạt đến Không – Bất Không, tức là Đại Niết bàn, hay Phật tánh Trung đạo. Trung đạo KhôngBất Không này về sau được gọi là Chân Không - Diệu Hữu theo các nhà Đại thừa.

 

Phật tánh là ánh sáng

“Bấy giờ đức Thế Tôn, đại bi tỏa nơi tâm, rõ biết mỗi mỗi tâm niệm của đại chúng, muốn tùy thuận để đại chúng được lợi ích rốt ráo, liền từ chỗ nằm ngồi dậy, ngồi kiết già, sắc mặt vui tươi sáng chói như vàng ròng, khuôn mặt đoan nghiêm như vầng trăng tròn, hình dung thanh tịnh không một chút bợn nhơ, phóng ánh sáng lớn đầy khắp hư không. Ánh sáng ấy sáng hơn trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các cõi Phật mười phương thế giới, ban đuốc sáng đại trí cho chúng sanh, khiến họ được diệt vô minh đen tối, khiến trăm ngàn ức vô số chúng sanh ở yên không thối thất tâm Bồ đề.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tâm không chút lay động, như sư tử vương, dùng ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp mà trang nghiêm nơi thân. Tất cả những lỗ chân lông trên thân, mỗi một lỗ chân lông đều hiện ra một hoa sen. Các hoa sen ấy vi diệu, mỗi hoa có ngàn cánh, thuần màu vàng ròng, cuống bằng lưu ly, nhụy bằng kim cương, đài bằng ngọc mai khôi, hình lớn tròn như bánh xe. Những hoa sen ấy phóng ra ánh sáng nhiều màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, tía và màu pha lê. Các ánh sáng ấy chiếu suốt đến địa ngục A tỳ và các đại địa ngục, chúng sanh đang bị khổ đốt, nấu, đâm, chém, lột da… gặp được ánh sáng này đều được hết khổ, an ổn, mát mẻ. Trong ánh sáng ấy lại tuyên nói tạng bí mật của Như Lai rằng: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.

Tất cả sáu cõi đều được lợi lạc như vậy” (Phẩm Thị Hiện Bệnh).

Phật tánhNhư Lai, và Như Lai phóng ánh sáng tức là Phật tánh phóng ánh sáng. Ánh sáng của Phật tánh bao hàm tạng bí mật, nghĩa rốt ráo của thế giới chúng sanh là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

Tất cả thế giới, chúng sanh đều ở trong ánh sáng Phật tánh, sinh hoạt, sống chết trong ánh sáng Phật tánh. Ánh sáng Phật tánh là “tạng bí mật của Như Lai”, chính ánh sáng ấy tuyên thuyết “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Tất cả các cõi, từ thấp đến cao, từ phàm đến thánh, các cấp độ ấy được phân chia theo sự thấy biết và sống trong ánh sáng Phật tánh ít hay nhiều, cạn hay sâu.

Ánh sáng là thường trụ, chính là Phật, là Đại Niết bàn:

“Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói: Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là Trí huệ. Trí huệ tức là thường trụ, pháp thường trụ thì không có nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn thì gọi là thường trụ, pháp thường trụ thì không do nhân duyên.

Ánh sáng này chính là Như Lai. Như Lai tức là thường trụ, pháp thường trụ không từ nhân duyên.

Ánh sáng này là Đại Từ Đại Bi, đại từ bi gọi là thường trụ, pháp thường trụ chẳng phải từ nhân duyên.

Ánh sáng này tức là nhớ nghĩ Phật. Nhớ nghĩ Phật gọi là thường trụ, pháp thường trụ thì không do nhân duyên” (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có rất nhiều thí dụ nói lên ánh sáng Phật tánh: ánh sáng hạt châu của người đại lực sĩ, ánh sáng viên kim cương hạt minh châu, ánh sáng của mặt trăng mặt trời, Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu, Phật Mãn Nguyệt Quang… trong Phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, kết thúc ba bài pháp cuối cùng của đức Phật, ngài nói:

“Do đây nên ngày nay ta an trụ Thường Tịch Diệt Quang gọi là Đại Niết Bàn.”

Đại Niết bàn tức là Thường Tịch Diệt Quang, và Đại Niết bàn để chỉ cho Phật tánh trong suốt bộ kinh. Phật tánhThường Tịch Diệt Quang bao trùm vũ trụ và tất cả chúng sanh.

 

Phật tánhnăng lực của Phật, Phật lực

Phật tánh Không chỉ là tánh Không, Phật tánh ấy còn là ánh sáng và ánh sáng ấy phóng chiếu khắp các cõi, đem đến lợi lạc cho tất cả muôn loài. Ánh sáng Phật tánh là ánh sáng hoạt động, đầy năng lực.

Như Laiđại từ bi, xem chúng sanh như con một, như La Hầu La. Đại từ bi ấy là sự hoạt động cứu độ chúng sanh, sự hoạt động của đại từ bi nơi thế giớiHóa thân:

“Thiện nam tử! Phật pháp cũng vậy, rất sâu khó hiểu. Như Lai thật khôngưu bi khổ não, mà ở nơi chúng sanh khởi đại từ bi, thị hiệnưu bi, xem chúng sanh như con một, như La Hầu La.

Ca Diếp! Tánh Như Lai thanh tịnh vô nhiễm, giống như hóa thân, chỗ nào mà có ưu bi khổ não? Nếu nói Như Lai không có ưu bi thì làm sao có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, rộng giảng Phật pháp? Nếu nói là không có ưu bi thì sao lại nói xem chúng sanh bình đẳng đều như La Hầu La?

Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật, dầu hóa ra đủ thứ cung điện, sát sanh, nuôi dưỡng, trói buộc, thả ra, cho đến hóa làm vàng bạc, lưu ly, rừng rậm, cây cối… đều không có thật tánh.

Cũng vậy, Như Lai tùy thuận thế gianthị hiện ưu bi nhưng không có chân thật. Như Lai đã chứng nhập Đại Niết bàn, làm sao lại có ưu bi khổ não? Thế nên Như Lai gọi là Vô ngại trí, thị hiện huyễn hóa tùy thuận theo thế gian”. (Phẩm Như Lai tánh - Phẩm Điểu Dụ).

Năng lực hoạt động của Phật tánhnăng lực của đại từ bi, xem tất cả chúng sanh như con một, vì đại từ bi mà “thị hiện, hóa hiện” tùy thuận thế gian để cứu độ chúng sanh.

Năng lực của Phật thì không có nhân duyên, đó là năng lực của Phật tánh, của pháp tánh, bởi vì Phật tánh hay pháp tánh thì vô trụ, không có nhân duyên, và năng lực ấy là đại từ đại bi:

“Giới của Như Lai không có nhân duyên, vì thế nên được gọi là giới rốt ráo. Vì nghĩa này nên Bồ tát tuy bị các chúng sanh xấu ác làm tổn hại vẫn chẳng sanh mê mờ, sân giận. Thế nên Như Lai được gọi là thành tựu giữ giới rốt ráo.

Thiện nam tử! Thuở trước có lần ta cùng Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đồng ở trong thành Chiêm Bà nước Ma Dà Đà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu, nó sợ hãi bay vào núp trong cái bóng của Xá Lợi Phất nhưng vẫn còn run sợ. Bay đến trong cái bóng của ta thì thân tâm an ổn hết kinh sợ. Thế nên hãy biết Thế Tôn Như Lai giữ giới rốt ráo, cho đến bóng của thân còn có năng lực như vậy”. (Phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

 

Phật tánhtánh không hai

Phật tánhthật tánh, và thật tánhtánh không hai.

“Nếu nói vô minhnhân duyên sanh ra các hành, người phàm phu nghe liền sanh tưởng có hai pháp: minh và vô minh. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Nếu nói Mười Thiện, mười ác, có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường thiện lành, đường xấu ác, pháp thiện, pháp ác, người phàm phu nghe liền cho là có hai. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Thiện nam tử! Minh cùng vô minh cũng lại như vậy. Nếu chung với phiền não thì gọi là vô minh, nếu chung với tất cả pháp thiện lành thì gọi là minh. Thế nên ta nói không có hai tướng. Vì thế trước kia ta nói bò cái ăn cỏ Phì nhị ở núi Tuyết thì sanh thuần chất đề hồ. Phật tánh cũng vậy, là tánh không hai. Do phiền não che đậy nên chúng sanh chẳng thấy Phật tánh” (Phẩm Như Lai tánh).

Phật tánhtánh không hai của vô minh và minh, tức là của sanh tửNiết bàn. Phật tánh không hai là bản tánh của sanh tửNiết bàn. Phật tánh không hai này kinh gọi là Đại Niết bàn thay vì là Niết bàn như bình thường.

Phật tánh hay Đại Niết bàn không chỉ là tánh không hai của tất cả sanh tửNiết bàn. Phật tánh hay Đại Niết bàn còn là tánh không hai của Ba Thân, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Nói cách khác, trong Phật tánh hay Đại Niết bàn, ba thân Pháp thân, Báo thân, Hóa thân, hay tánh Không, quang minh, năng lực là Một. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5273)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5834)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7464)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4761)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5890)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6134)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6603)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5961)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7069)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6684)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4813)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4944)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7722)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9832)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7544)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5336)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6430)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5433)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5849)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6406)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5705)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6447)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7074)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6297)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10681)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6195)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6755)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6514)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5745)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7572)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6265)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9668)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4190)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4314)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4779)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5339)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5298)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5827)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6792)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5558)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4506)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5338)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5008)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4373)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6880)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4621)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8429)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7225)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8383)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7535)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7597)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant