Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

21 Tháng Sáu 202119:08(Xem: 2894)
Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Nguyễn Thế Đăng

doi song tu bi

 

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật. Để hiểu sự nhập Đại Niết bàn, chúng ta cần ôn lại định nghĩa của Kinh về Phật là gì để biết Phật nhập Đại Niết bàn là thế nào. Trong những phẩm đầu tiên của kinh, Phật được định nghĩa là Pháp thânpháp tánh:

Phật dạy: Y theo pháp ấy tức là Đại Bát Niết bàn của Như Lai. Tất cả Phật pháp tức là Pháp tánh, Pháp tánh ấy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thường trụ không biến đổi. Nếu ai bảo rằng Như Lai vô thường, người này không biết không thấy pháp tánh…

Nếu rõ biết Như Lai tức là Pháp thân, đó là chân trí nên phải y chỉ. Nếu thấy thân phương tiện của Như Lai mà nói rằng thân ấy là thuộc về sự chi phối bởi ấm, giới, nhập, do ăn uống mà được nuôi lớn, nhận thức này là thức, chẳng nên y theo.

Nếu nói Như Lai thường trụ không biến đổi, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập Niết bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập pháp tánh, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo” (phẩm Tứ Y, phẩm Như Lai tánh).

Như vậy, nhập Niết bàn của Phật là sự rút lui Hóa thân vào trong Pháp thân, trong pháp tánh, trong Đại Bát Niết bàn, trong Phật tánh. Nhập Niết bàn, chữ dùng rất thông dụng, có nghĩa là chấm dứt Ứng thân hay Hóa thân (Ứng tận) để rút về, trở lại Pháp thân (Hoàn nguyên) như phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên nói. Điều này được Đức Phật dạy:

Đại chúng ở trong biển lớn sanh tử phải siêng năng tu hành cho được tâm thanh tịnh, chớ để mất chánh niệm, chánh huệ, phải gấp cầu chánh trí để mau thoát khỏi các cõi. Nếu thọ thân trong ba cõi thì bị khổ luân hồi không bờ mé, vô minh là ông chủ, ân áiMa vương, sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên khắp các cảnh giới, tạo nghiệp sanh tử, tham sân si niệm niệm làm hại, từ vô lượng kiếp đến nay thường thọ lấy khổ não. Có người trí nào mà chẳng đi ngược lại nguồn sanh tử này.

Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp đến nay ta đã nhập Đại Niết bàn, không còn có ấm, giới, nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong Bảo tạng Kim cương thường lạc ngã tịnh. Hôm nay ta ở nơi này thị hiện lực phương tiện chẳng thể nghĩ bàn mà nhập Đại Niết bàn theo như pháp thế gian. Đó là ta muốn cho chúng sanhbiết thân như chớp nhoáng, mà lại sanh tâm luyến mộ, dòng sanh tử mạnh mẽ chảy xiết rất nhanh, các hành luân chuyển cũng giống như vậy.

Như Lai nhập Niết bàn là rất sâu, rất sâu, không thể nghĩ bàn. Đó là cảnh giới của chư Phật, Bồ tát, chẳng phải chư Thanh Văn, Duyên Giác biết được” (phẩm Kiều Trần Như).

Như vậy, Như Lai đã ở trong Đại Niết bàn, trong Bảo tạng Kim cương từ nhiều kiếp rất lâu xa, vậy mà nay nhập Niết bàn thì việc này chỉ là thị hiện. Đại Niết bàn hay Bảo tạng Kim cương thì vượt khỏi Niết bànsanh tử, vì là bản tánh của Niết bànsanh tử. Như Lai đã từ lâu ở trong Đại Niết bàn, và Đại Niết bàn thì không có nhập, không có xuất.

Thấy Phật tánh hoàn toàn rõ ràng để có thể hiểu sự nhập Niết bàn của Phật thì chỉ có chư Đại Bồ tát, chư Phật:

Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh được một ít phần, Như Lai thì thấy rõ ràng hoàn toàn. Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh như trong đêm tối thấy hình sắc. Như Lai thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc. Chư Phật thấy bằng mắt Phật tánh như xem trái cây trong bàn tay.

Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh thấy rõ Phật tánh thì chẳng cần tu tập thánh đạo. Bồ tát Thập Trụ tu Tám thánh đạo còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!

Thiện nam tử! Các Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi tu tập thánh đạo đã trải qua vô lượng đời nên thấy rõ Phật tánh” (phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống)

 

Phật tánh được Đức Phật và các Đại Bồ tát giảng giải, bàn luận trong suốt bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, và trong ba bài thuyết pháp cuối cùng của Đức Phật, trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, ngài đã tổng kết cái thấy biết Phật tánh của một vị Phật. Chúng ta cần học và chuyên cần làm theo, dù qua nhiều kiếp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định, từ Sơ thiền đến Phi phi tưởng xứ định và ngược lại, rồi bảo khắp đại chúng:

Ta dùng trí huệ Bát nhã sâu xa xem thấy ba cõi tất cả sáu đường chúng sanh, núi non, biển lớn, lục địa các loài. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh, không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu. Xưa nay bình đẳng, không có niệm tưởng cao thấp, không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không có thọ mạng, không sanh không khởi, không dứt không diệt, không phải thế gian không phải chẳng thế gian, Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, hai bên bình đẳngbình đẳng với tất cả các pháp.

(Bậc thấy biết như vậy thì) nhàn nhã, tĩnh lặng, không có chỗ ra sức, chỗ an trụ rốt ráo đều chẳng thể đắc, từ pháp vô trụ mà hiện làm như pháp tánh vô trụ, hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Pháp tướng như vậy, ai rõ biết thì gọi là người xuất thế, nếu chẳng biết như vậy gọi là bắt đầu sanh tử. Đại chúng các ông phải đoạn dứt vô minh, diệt chỗ bắt đầu của sanh tử”.

Thực tại xưa nay vốn thanh tịnh, bình đẳng, chưa từng có sanh tử gập ghềnh, nhấp nhô là các “niệm tưởng cao thấp” gây ra khổ đau. Tất cả là một vị tánh Không, không có sự phân biệt tạo ra khác biệt của các giác quan, ý thức, ta và chúng sanh, ta và thế giới: “không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không phải thế gian không phải chẳng thế gian…

Phật là bậc hoàn toàn không trụ:

Các bậc thánh nhân thì không đi, không đến, không trụ. Như Lai đã đoạn dứt những tướng đi, đến, trụ. Như hư không chẳng trụ mười phương, Như Lai cũng như vậy, chẳng trụ mười phương” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Có trụ bèn thấy có tướng, bậc Giác Ngộ không có chỗ trụ, đồng với “pháp tánh vô trụ”, nên hoàn toàn không có tướng: “Hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu”.

Niết bàn sanh tử điều chẳng thể đắc, cả hai bình đẳngbình đẳng với tất cả pháp”, tất cả pháp và Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, vì tất cả bình đẳng trong một vị tánh Không. Niết bànsanh tử bình đẳng vì cả hai cùng một bản tánh, hay có thể gọi là “bản tánh của sanh tửNiết bàn”.

Sở dĩba cõi, hai mươi lăm cõi hữu, bởi vì có vô minh phân biệt chia cắt thực tại thành vô số tướng, các tướng ấy tạo thành sanh tử vọng thấy. Muốn hết sanh tử, phải xóa hết vô minh. Xóa hết vô minh bằng cách xóa hết hoạt động phân biệt của vọng thức. Không phân biệt, tức không có vô minh, không có sanh tử. Không phân biệt tức là thức chuyển thành trí, vì thức vốn là trí.

Bậc thấy biết như vậy thì tâm hoàn toàn thể nhập với pháp tánh vô trụ, tức là tánh Không, thấy các pháp là vô trụ, do đó các việc làm lớn nhỏ đều là hiện làm, làm mà không làm gì cả, vì làm từ vô trụ đến vô trụ.

Vô minh, “chỗ bắt đầu của sanh tử” theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, là “một niệm bất giác”. Một niệm bất giác là một niệm xa lìa pháp tánh vô trụ, xa lìa bản tánh của tâm, và lạc vào trong các tưởng phân biệt tạo thành các tướng phân biệt. Các tướng phân biệt, đó là sanh tử, do các tưởng tạo thành. Và các tưởng là do lạc khỏi bản tâm, tức pháp tánh vô trụ vốn hiện hữu xưa nay, vốn thường trụ xưa nay, chưa từng dời khỏi một ly một tấc.

Người thực hành được như vậy, an trụ thuần thục trong bản tâm vô trụ thì thấy tất cả mọi hiện tướngbản tâm, mà bản tâm thì vô trụ nên tất cả hiện tướng đều vô trụ. Đây là sự giải thoát khỏi vô minh, sự giải thoát vốn xưa nay như vậy vì sanh tử hư vọng chưa từng có.

Thực hành là lúc ban đầu có một niềm tin rằng chúng ta đang có phần nào cái thấy Phật tánh này, vì như Đức Phật dạy, “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Khi đã tin, cảm nhận, tiếp xúc phần nào cái Thấy này, chúng ta Thiền định, nghĩa là không xa lìa cái thấy ấy, niệm niệm duy trì, hộ trì, giữ gìn, bảo nhậm cái thấy ấy. Khi thực hành duy trì cái thấy, nó sẽ dần dần mở ra chiều kích vô hạn, chiều kích Vô Biên Thân của nó. Thiền định phần nhiều là công việc làm của tâm ý. Chúng ta bước đến Hạnh, tức là duy trì cái thấy trong tất cả hiện hữu của chúng ta, trong mắt tai mũi lưỡi thân ý, trong các đối tượng của sáu giác quan.

Cái thấy Phật tánh là cái thấy Phật. Khi toàn bộ con người và những khả năng của nó đều được bao trùm trong cái thấy Phật này, thì “tất cả là Phật”.

Lần thứ hai, Đức Phật thuyết pháp về cái thấy biết của Phật như thế này:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói những lời ấy xong lại nhập siêu thiền: từ Sơ thiền xuất lại nhập các thiền cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, rồi đi ngược lại…

Sau khi Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập siêu thiền như vậy lại bảo đại chúng:

Ta dùng Ma ha Bát nhã xem thấy khắp ba cõi: tất cả hữu tình, vô tình, tất cả người và pháp trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, xưa nay vốn thanh tịnh, không có dơ nhiễm, không có phiền não, đồng như hư không, chẳng phải bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng, hết sạch những động niệm, tư tưởng, tâm vĩnh viễn dứt bặt.

Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết bàn. Thật sự thấy pháp đây thì gọi là giải thoát. Người phàm phu không biết gọi là vô minh”.

Tất cả ba cõi và những gì hiện hữu trong đó, loài hữu tình và sự vật vô tình, trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra chẳng vào… vì tất cả chưa từng lìa tánh Không và tất cả đã là, đang là, mãi mãi sẽ là tánh Không.

Chính vì chưa từng lìa tánh Không, mãi mãitánh Không, nên chưa từng có một tướng, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đồng như hư không. Chưa từng có một tướng cho nên chưa từng có một tâm, một động niệm, một tư tưởng. Tất cả sanh tử hoàn nguyên vào Phật tánh Đại Niết bàn đối với một bậc Giác Ngộ. Nhưng với chúng sanh, vì họ vẫn giữ cái thấy sai lầm của họ, nên sanh tử của họ vẫn như họ thấy, không bị hủy hoại. Tánh Không này là Chân Không - Diệu Hữu: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Không phải là không có sắc, mà sắc do cái thấy vô minh phân biệt hoàn nguyên lại bản tánh của chúng là Chân Không Phật tánh, tức là “tánh không hai” của sắc và Không.

Như các thí dụ trong Kinh tất cả mọi món đồ làm bằng vàng đều là vàng. Tất cả mọi hình bóng trong gương đều là gương. Tất cả mọi khởi tâm động niệm, mọi nói năng đi đứng… đều là Phật tánh.

Đây là chỗ trong phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu gọi là Kim cương tam muội.

Thiện nam tử! Vì tất cả pháp vốn không có tướng. Bồ tát này nhờ năng lực Kim cương tam muội này thấy tất cả pháp là Như, vốn vô tướng”.

Thấy các pháp là vô tướng, là Như, là Phật tánh, là Pháp thânthuần thục trong đó, đây là tất cả con đường Phật giáo, con đường thấy Phật tánh hoàn toàn rốt ráo của một bậc giác ngộ.

 

Nói xong, Đức Phật lại nhập siêu thiền: xuất sơ thiền nhập tam thiền cho đến nhập Diệt tận định. Từ diệt tận định xuất cho đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập siêu thiền xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng:

Ta dùng Phật nhãn xem thấy khắp ba cõi, tất cả các pháp, cội nguồn vô minh, tánh vốn giải thoát, tìm khắp mười phương rốt ráo chẳng thể được. Vì cội gốc đã Không nên tất cả cành lá của nó thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát cho nên đến già, chết đều được giải thoát. Do đây nên nay ta an trụ thường tịch diệt quang gọi là Đại Niết bàn”.

Ba cõi, tất cả các pháp do từ cội nguồn vô minh mà có. Vô minh là “một niệm bất giác” khiến tách lìa khỏi Phật tánh, cho mình là một hiện hữu riêng biệt gọi là “tôi” và khi có tôi bèn có “cái của tôi”. Cuộc sống của người bình thường là sự xây đắp thêm kiên cố cho cái tôi và cái của tôi này, bằng ý thức, các thức giác quan và đủ các thứ phiền não.

Khi đã là một người thì một niệm, một ý tưởng nào khởi lên cũng là “một niệm bất giác” cắt lìa, chia cách chúng ta với thực tại bổn nguyên là Phật tánh. Một niệm bất giác khởi lên là có sự phân biệt tạo thành tướng ta, tướng người, tướng sự vật, tướng thế giới. Các tướng ấy tạo thành sanh tử chia cắt trong Phật tánh vốn là “Một Tướng, Một Tâm”.

Vô minh là kẻ nứt trong thực tại Phật tánh, kẻ nứt ấy là sự phân biệt đầu tiên về một cái ta chưa thành hình. Hành là sự chuyển động trong kẻ nứt ấy tạo thành thức. Thức sanh ra danh sắc, tức là thân tâm con người. Và những duyên sanh tiếp theo làm cho kẻ nứt vô minh càng ngày càng rộng ra và thêm cứng đặc, thêm vật chất hóa.

Một khởi niệm như thế bao gồm trong nó ít nhất là ba thành phần căn bản: vô minh, hành, và thức. Thế nên con đường Phật giáo là “tự tịnh tâm ý”, tịnh hóa sự phân biệt, chia cắt ở mức tiềm thể (vô minh) và hiện thể (hành, thức) để “hoàn nguyên” lại thực tại Phật tánh bổn nguyên. Do đó mọi pháp môn của Phật giáo chủ yếu làm việc trên những khởi niệm. Những khởi niệm là những nguyên liệu, những tài liệu để học hỏi và nhìn thấy Phật tánh.

Nhưng vô minh là cái sanh ra trên nền tảng Phật tánh vốn có sẳn. Vô minh cũng nằm trong Phật tánh, nghĩa là trong tánh Không, quang minhnăng lực. Vô minh, hành, thức chính là tánh Không, quang minhnăng lực. Thế nên, kinh nói:

Nếu nói vô minhnhân duyên sanh ra các hành, người phàm phu nghe bèn phân biệt sanh tưởng có hai pháp: minh và vô minh. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Nếu nói các hành là nhân duyên sanh ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: hành và thức. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai ấy tức là thật tánh.

Tánh không hai này tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Vô minh, hành, thức là tánh không hai, là Phật tánh, là tánh Không nên vô minh, hành, thức là vô sanh. Vô minh, hành, thức là vô sanh nên vòng mười hai nhân duyênvô sanh, tất cả niệm tưởng và hình tướngvô sanh. “Cội nguồn vô minh, tất cả các pháp, tánh vốn giải thoát” vì vô minh và tất cả các pháp vốn là tánh Không, vốn là vô sanh vậy.

Vô minh, hành, thức là tánh không hai của minh và vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là minh, là quang minh. Trong Phật tánh quang minh, niệm tưởng và hình tướng như phàm phu thấy chỉ là sự biểu lộ, hiện tướng của quang minh, chỉ là quang minh, nên tất cả vốn là giải thoát.

Vô minh, hành, thức cho đến lão tử là sự hóa hiện của năng lực bị giới hạn trong một cái tôi và cái của tôi. Khi phá vỡ giới hạn của cái tôi và cái của tôi, thì sự hóa hiện của cá nhân trở thành sự hóa hiện của Phật tánh toàn thể. Năng lực hóa hiện của Phật tánh là Không, Vô tướng, Vô tác, Bất động nên sự hóa hiện của tất cả các pháp là như huyễn, vì tất cả chỉ là Phật tánh.

Vì cội gốc vô minh đã Không nên cành lá của nó thảy đều giải thoát”: Các tướng hiện thấy vốn là giải thoát vì trong thật tướng của chúng, chúng là Vô tướng, là tánh Không. Chưa từng có vô minh nào tạo ra các tướng phân biệt sai khác để tạo thành sanh tử cả. Chưa từng có vô minh nào để biến quang minh thành các tướng. Chưa từng có vô minh nào để biến cái như huyễn thành các tướng có thật, được vật chất hóa.

Cả ba lần thuyết pháp đều nhấn mạnh đến Không, tánh Không. Nhưng như những phẩm trước đã nói, Không –Bất Không mới trọn nghĩa Phật tánh. Thế nên khi “cội gốc vô minh đã Không”, sanh tử đã Không thì không phải là không có gì hết, mà có Bất Không, tức là tất cả công đức. Công đức ấy kinh nói là “thường tịch diệt quang, gọi là Đại Niết bàn”. 

Suốt kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật và các Đại Bồ tát đã khai thị Pháp thân Phật (các kinh khác gọi là “Pháp thân của tất cả chư Phật”). Ngay từ những phẩm đầu, Đức Phật đã cho biết thân ngài mà mọi người đều thấy chỉ là Hóa thân, sự hóa hiện, thị hiện của Pháp thân vốn không sanh không diệt:

Này Ca Diếp! Như đề hồ, tánh nó thanh tịnh. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải do cha mẹ hòa hiệp mà sanh, tánh Như Lai thanh tịnh, sở dĩ thị hiệncha mẹ là vì muốn hóa độ chúng sanh. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cùng giải thoát không hai không khác” (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh).

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên này, Đức Phật với ba lần thuyết pháp sau cùng nói về Pháp thân trọn vẹn, và không phải như người bình thường hiểu là Ngài nhập Niết bàn nghĩa là “tắt mất hẳn”, mà là đưa Hóa thân trở lại Pháp thân. “Ứng tận” là chấm dứt sự thị hiện của Hóa thân hay Ứng thân, “hoàn nguyên” là đưa về, rút Hóa thân vào Pháp thân.

Pháp thân hay Phật tánh là cái mỗi người đều có, nhưng vì một lối sống sai lầm do vô minh phiền não mà không thấy, có lúc càng lạc xa. Chính xác hơn, không phải mỗi chúng sanh đều có Pháp thân Phật tánh, mà mỗi chúng sanh đều Pháp thân Phật tánh.

Sự tu hành theo kinh bắt đầu bằng niềm tin mỗi chúng ta chính là Pháp thân Phật tánh, và các pháp môn các Ba la mật là sự khai triển sự thấy biết cái Pháp thân Phật tánh vốn có sẳn ấy trong cuộc đời của mỗi người. Như thế, Nền tảng là Pháp thân Phật tánh, Con đườngPháp thân Phật tánh, và Quả là Pháp thân Phật tánh.

Đó là cái gọi là tu trên Quả, Quả thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5207)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6153)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3069)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3116)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3251)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3309)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4573)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2741)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5234)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3890)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3854)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3218)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4158)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5071)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3533)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6767)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3978)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2974)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5884)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4648)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2909)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3321)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4440)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5738)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6650)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3738)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4545)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4624)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3987)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3414)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4648)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6076)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5855)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3648)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4704)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4469)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4545)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4280)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4611)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8233)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3935)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5734)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5222)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6870)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6195)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6006)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5820)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6804)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4985)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5582)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6406)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3799)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5438)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10484)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant