Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

21 Tháng Sáu 202119:08(Xem: 2856)
Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Phật Tánh: Thực Tại Tối Hậu

Nguyễn Thế Đăng

doi song tu bi

 

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật. Để hiểu sự nhập Đại Niết bàn, chúng ta cần ôn lại định nghĩa của Kinh về Phật là gì để biết Phật nhập Đại Niết bàn là thế nào. Trong những phẩm đầu tiên của kinh, Phật được định nghĩa là Pháp thânpháp tánh:

Phật dạy: Y theo pháp ấy tức là Đại Bát Niết bàn của Như Lai. Tất cả Phật pháp tức là Pháp tánh, Pháp tánh ấy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thường trụ không biến đổi. Nếu ai bảo rằng Như Lai vô thường, người này không biết không thấy pháp tánh…

Nếu rõ biết Như Lai tức là Pháp thân, đó là chân trí nên phải y chỉ. Nếu thấy thân phương tiện của Như Lai mà nói rằng thân ấy là thuộc về sự chi phối bởi ấm, giới, nhập, do ăn uống mà được nuôi lớn, nhận thức này là thức, chẳng nên y theo.

Nếu nói Như Lai thường trụ không biến đổi, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập Niết bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không trọn nghĩa rốt ráo. Nếu nói Như Lai nhập pháp tánh, đây là lời trọn nghĩa rốt ráo” (phẩm Tứ Y, phẩm Như Lai tánh).

Như vậy, nhập Niết bàn của Phật là sự rút lui Hóa thân vào trong Pháp thân, trong pháp tánh, trong Đại Bát Niết bàn, trong Phật tánh. Nhập Niết bàn, chữ dùng rất thông dụng, có nghĩa là chấm dứt Ứng thân hay Hóa thân (Ứng tận) để rút về, trở lại Pháp thân (Hoàn nguyên) như phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên nói. Điều này được Đức Phật dạy:

Đại chúng ở trong biển lớn sanh tử phải siêng năng tu hành cho được tâm thanh tịnh, chớ để mất chánh niệm, chánh huệ, phải gấp cầu chánh trí để mau thoát khỏi các cõi. Nếu thọ thân trong ba cõi thì bị khổ luân hồi không bờ mé, vô minh là ông chủ, ân áiMa vương, sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên khắp các cảnh giới, tạo nghiệp sanh tử, tham sân si niệm niệm làm hại, từ vô lượng kiếp đến nay thường thọ lấy khổ não. Có người trí nào mà chẳng đi ngược lại nguồn sanh tử này.

Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp đến nay ta đã nhập Đại Niết bàn, không còn có ấm, giới, nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong Bảo tạng Kim cương thường lạc ngã tịnh. Hôm nay ta ở nơi này thị hiện lực phương tiện chẳng thể nghĩ bàn mà nhập Đại Niết bàn theo như pháp thế gian. Đó là ta muốn cho chúng sanhbiết thân như chớp nhoáng, mà lại sanh tâm luyến mộ, dòng sanh tử mạnh mẽ chảy xiết rất nhanh, các hành luân chuyển cũng giống như vậy.

Như Lai nhập Niết bàn là rất sâu, rất sâu, không thể nghĩ bàn. Đó là cảnh giới của chư Phật, Bồ tát, chẳng phải chư Thanh Văn, Duyên Giác biết được” (phẩm Kiều Trần Như).

Như vậy, Như Lai đã ở trong Đại Niết bàn, trong Bảo tạng Kim cương từ nhiều kiếp rất lâu xa, vậy mà nay nhập Niết bàn thì việc này chỉ là thị hiện. Đại Niết bàn hay Bảo tạng Kim cương thì vượt khỏi Niết bànsanh tử, vì là bản tánh của Niết bànsanh tử. Như Lai đã từ lâu ở trong Đại Niết bàn, và Đại Niết bàn thì không có nhập, không có xuất.

Thấy Phật tánh hoàn toàn rõ ràng để có thể hiểu sự nhập Niết bàn của Phật thì chỉ có chư Đại Bồ tát, chư Phật:

Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh được một ít phần, Như Lai thì thấy rõ ràng hoàn toàn. Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tánh như trong đêm tối thấy hình sắc. Như Lai thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc. Chư Phật thấy bằng mắt Phật tánh như xem trái cây trong bàn tay.

Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh thấy rõ Phật tánh thì chẳng cần tu tập thánh đạo. Bồ tát Thập Trụ tu Tám thánh đạo còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!

Thiện nam tử! Các Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi tu tập thánh đạo đã trải qua vô lượng đời nên thấy rõ Phật tánh” (phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống)

 

Phật tánh được Đức Phật và các Đại Bồ tát giảng giải, bàn luận trong suốt bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, và trong ba bài thuyết pháp cuối cùng của Đức Phật, trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, ngài đã tổng kết cái thấy biết Phật tánh của một vị Phật. Chúng ta cần học và chuyên cần làm theo, dù qua nhiều kiếp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định, từ Sơ thiền đến Phi phi tưởng xứ định và ngược lại, rồi bảo khắp đại chúng:

Ta dùng trí huệ Bát nhã sâu xa xem thấy ba cõi tất cả sáu đường chúng sanh, núi non, biển lớn, lục địa các loài. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh, không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu. Xưa nay bình đẳng, không có niệm tưởng cao thấp, không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không có thọ mạng, không sanh không khởi, không dứt không diệt, không phải thế gian không phải chẳng thế gian, Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, hai bên bình đẳngbình đẳng với tất cả các pháp.

(Bậc thấy biết như vậy thì) nhàn nhã, tĩnh lặng, không có chỗ ra sức, chỗ an trụ rốt ráo đều chẳng thể đắc, từ pháp vô trụ mà hiện làm như pháp tánh vô trụ, hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Pháp tướng như vậy, ai rõ biết thì gọi là người xuất thế, nếu chẳng biết như vậy gọi là bắt đầu sanh tử. Đại chúng các ông phải đoạn dứt vô minh, diệt chỗ bắt đầu của sanh tử”.

Thực tại xưa nay vốn thanh tịnh, bình đẳng, chưa từng có sanh tử gập ghềnh, nhấp nhô là các “niệm tưởng cao thấp” gây ra khổ đau. Tất cả là một vị tánh Không, không có sự phân biệt tạo ra khác biệt của các giác quan, ý thức, ta và chúng sanh, ta và thế giới: “không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không phải thế gian không phải chẳng thế gian…

Phật là bậc hoàn toàn không trụ:

Các bậc thánh nhân thì không đi, không đến, không trụ. Như Lai đã đoạn dứt những tướng đi, đến, trụ. Như hư không chẳng trụ mười phương, Như Lai cũng như vậy, chẳng trụ mười phương” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Có trụ bèn thấy có tướng, bậc Giác Ngộ không có chỗ trụ, đồng với “pháp tánh vô trụ”, nên hoàn toàn không có tướng: “Hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu”.

Niết bàn sanh tử điều chẳng thể đắc, cả hai bình đẳngbình đẳng với tất cả pháp”, tất cả pháp và Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, vì tất cả bình đẳng trong một vị tánh Không. Niết bànsanh tử bình đẳng vì cả hai cùng một bản tánh, hay có thể gọi là “bản tánh của sanh tửNiết bàn”.

Sở dĩba cõi, hai mươi lăm cõi hữu, bởi vì có vô minh phân biệt chia cắt thực tại thành vô số tướng, các tướng ấy tạo thành sanh tử vọng thấy. Muốn hết sanh tử, phải xóa hết vô minh. Xóa hết vô minh bằng cách xóa hết hoạt động phân biệt của vọng thức. Không phân biệt, tức không có vô minh, không có sanh tử. Không phân biệt tức là thức chuyển thành trí, vì thức vốn là trí.

Bậc thấy biết như vậy thì tâm hoàn toàn thể nhập với pháp tánh vô trụ, tức là tánh Không, thấy các pháp là vô trụ, do đó các việc làm lớn nhỏ đều là hiện làm, làm mà không làm gì cả, vì làm từ vô trụ đến vô trụ.

Vô minh, “chỗ bắt đầu của sanh tử” theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, là “một niệm bất giác”. Một niệm bất giác là một niệm xa lìa pháp tánh vô trụ, xa lìa bản tánh của tâm, và lạc vào trong các tưởng phân biệt tạo thành các tướng phân biệt. Các tướng phân biệt, đó là sanh tử, do các tưởng tạo thành. Và các tưởng là do lạc khỏi bản tâm, tức pháp tánh vô trụ vốn hiện hữu xưa nay, vốn thường trụ xưa nay, chưa từng dời khỏi một ly một tấc.

Người thực hành được như vậy, an trụ thuần thục trong bản tâm vô trụ thì thấy tất cả mọi hiện tướngbản tâm, mà bản tâm thì vô trụ nên tất cả hiện tướng đều vô trụ. Đây là sự giải thoát khỏi vô minh, sự giải thoát vốn xưa nay như vậy vì sanh tử hư vọng chưa từng có.

Thực hành là lúc ban đầu có một niềm tin rằng chúng ta đang có phần nào cái thấy Phật tánh này, vì như Đức Phật dạy, “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Khi đã tin, cảm nhận, tiếp xúc phần nào cái Thấy này, chúng ta Thiền định, nghĩa là không xa lìa cái thấy ấy, niệm niệm duy trì, hộ trì, giữ gìn, bảo nhậm cái thấy ấy. Khi thực hành duy trì cái thấy, nó sẽ dần dần mở ra chiều kích vô hạn, chiều kích Vô Biên Thân của nó. Thiền định phần nhiều là công việc làm của tâm ý. Chúng ta bước đến Hạnh, tức là duy trì cái thấy trong tất cả hiện hữu của chúng ta, trong mắt tai mũi lưỡi thân ý, trong các đối tượng của sáu giác quan.

Cái thấy Phật tánh là cái thấy Phật. Khi toàn bộ con người và những khả năng của nó đều được bao trùm trong cái thấy Phật này, thì “tất cả là Phật”.

Lần thứ hai, Đức Phật thuyết pháp về cái thấy biết của Phật như thế này:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói những lời ấy xong lại nhập siêu thiền: từ Sơ thiền xuất lại nhập các thiền cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, rồi đi ngược lại…

Sau khi Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập siêu thiền như vậy lại bảo đại chúng:

Ta dùng Ma ha Bát nhã xem thấy khắp ba cõi: tất cả hữu tình, vô tình, tất cả người và pháp trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, xưa nay vốn thanh tịnh, không có dơ nhiễm, không có phiền não, đồng như hư không, chẳng phải bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng, hết sạch những động niệm, tư tưởng, tâm vĩnh viễn dứt bặt.

Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết bàn. Thật sự thấy pháp đây thì gọi là giải thoát. Người phàm phu không biết gọi là vô minh”.

Tất cả ba cõi và những gì hiện hữu trong đó, loài hữu tình và sự vật vô tình, trọn đều rốt ráo không có trói buộc, không có giải thoát, không có chủ, không nương dựa, không thể nắm giữ, chẳng ra chẳng vào… vì tất cả chưa từng lìa tánh Không và tất cả đã là, đang là, mãi mãi sẽ là tánh Không.

Chính vì chưa từng lìa tánh Không, mãi mãitánh Không, nên chưa từng có một tướng, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đồng như hư không. Chưa từng có một tướng cho nên chưa từng có một tâm, một động niệm, một tư tưởng. Tất cả sanh tử hoàn nguyên vào Phật tánh Đại Niết bàn đối với một bậc Giác Ngộ. Nhưng với chúng sanh, vì họ vẫn giữ cái thấy sai lầm của họ, nên sanh tử của họ vẫn như họ thấy, không bị hủy hoại. Tánh Không này là Chân Không - Diệu Hữu: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Không phải là không có sắc, mà sắc do cái thấy vô minh phân biệt hoàn nguyên lại bản tánh của chúng là Chân Không Phật tánh, tức là “tánh không hai” của sắc và Không.

Như các thí dụ trong Kinh tất cả mọi món đồ làm bằng vàng đều là vàng. Tất cả mọi hình bóng trong gương đều là gương. Tất cả mọi khởi tâm động niệm, mọi nói năng đi đứng… đều là Phật tánh.

Đây là chỗ trong phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu gọi là Kim cương tam muội.

Thiện nam tử! Vì tất cả pháp vốn không có tướng. Bồ tát này nhờ năng lực Kim cương tam muội này thấy tất cả pháp là Như, vốn vô tướng”.

Thấy các pháp là vô tướng, là Như, là Phật tánh, là Pháp thânthuần thục trong đó, đây là tất cả con đường Phật giáo, con đường thấy Phật tánh hoàn toàn rốt ráo của một bậc giác ngộ.

 

Nói xong, Đức Phật lại nhập siêu thiền: xuất sơ thiền nhập tam thiền cho đến nhập Diệt tận định. Từ diệt tận định xuất cho đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập siêu thiền xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng:

Ta dùng Phật nhãn xem thấy khắp ba cõi, tất cả các pháp, cội nguồn vô minh, tánh vốn giải thoát, tìm khắp mười phương rốt ráo chẳng thể được. Vì cội gốc đã Không nên tất cả cành lá của nó thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát cho nên đến già, chết đều được giải thoát. Do đây nên nay ta an trụ thường tịch diệt quang gọi là Đại Niết bàn”.

Ba cõi, tất cả các pháp do từ cội nguồn vô minh mà có. Vô minh là “một niệm bất giác” khiến tách lìa khỏi Phật tánh, cho mình là một hiện hữu riêng biệt gọi là “tôi” và khi có tôi bèn có “cái của tôi”. Cuộc sống của người bình thường là sự xây đắp thêm kiên cố cho cái tôi và cái của tôi này, bằng ý thức, các thức giác quan và đủ các thứ phiền não.

Khi đã là một người thì một niệm, một ý tưởng nào khởi lên cũng là “một niệm bất giác” cắt lìa, chia cách chúng ta với thực tại bổn nguyên là Phật tánh. Một niệm bất giác khởi lên là có sự phân biệt tạo thành tướng ta, tướng người, tướng sự vật, tướng thế giới. Các tướng ấy tạo thành sanh tử chia cắt trong Phật tánh vốn là “Một Tướng, Một Tâm”.

Vô minh là kẻ nứt trong thực tại Phật tánh, kẻ nứt ấy là sự phân biệt đầu tiên về một cái ta chưa thành hình. Hành là sự chuyển động trong kẻ nứt ấy tạo thành thức. Thức sanh ra danh sắc, tức là thân tâm con người. Và những duyên sanh tiếp theo làm cho kẻ nứt vô minh càng ngày càng rộng ra và thêm cứng đặc, thêm vật chất hóa.

Một khởi niệm như thế bao gồm trong nó ít nhất là ba thành phần căn bản: vô minh, hành, và thức. Thế nên con đường Phật giáo là “tự tịnh tâm ý”, tịnh hóa sự phân biệt, chia cắt ở mức tiềm thể (vô minh) và hiện thể (hành, thức) để “hoàn nguyên” lại thực tại Phật tánh bổn nguyên. Do đó mọi pháp môn của Phật giáo chủ yếu làm việc trên những khởi niệm. Những khởi niệm là những nguyên liệu, những tài liệu để học hỏi và nhìn thấy Phật tánh.

Nhưng vô minh là cái sanh ra trên nền tảng Phật tánh vốn có sẳn. Vô minh cũng nằm trong Phật tánh, nghĩa là trong tánh Không, quang minhnăng lực. Vô minh, hành, thức chính là tánh Không, quang minhnăng lực. Thế nên, kinh nói:

Nếu nói vô minhnhân duyên sanh ra các hành, người phàm phu nghe bèn phân biệt sanh tưởng có hai pháp: minh và vô minh. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Nếu nói các hành là nhân duyên sanh ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: hành và thức. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai ấy tức là thật tánh.

Tánh không hai này tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Vô minh, hành, thức là tánh không hai, là Phật tánh, là tánh Không nên vô minh, hành, thức là vô sanh. Vô minh, hành, thức là vô sanh nên vòng mười hai nhân duyênvô sanh, tất cả niệm tưởng và hình tướngvô sanh. “Cội nguồn vô minh, tất cả các pháp, tánh vốn giải thoát” vì vô minh và tất cả các pháp vốn là tánh Không, vốn là vô sanh vậy.

Vô minh, hành, thức là tánh không hai của minh và vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là minh, là quang minh. Trong Phật tánh quang minh, niệm tưởng và hình tướng như phàm phu thấy chỉ là sự biểu lộ, hiện tướng của quang minh, chỉ là quang minh, nên tất cả vốn là giải thoát.

Vô minh, hành, thức cho đến lão tử là sự hóa hiện của năng lực bị giới hạn trong một cái tôi và cái của tôi. Khi phá vỡ giới hạn của cái tôi và cái của tôi, thì sự hóa hiện của cá nhân trở thành sự hóa hiện của Phật tánh toàn thể. Năng lực hóa hiện của Phật tánh là Không, Vô tướng, Vô tác, Bất động nên sự hóa hiện của tất cả các pháp là như huyễn, vì tất cả chỉ là Phật tánh.

Vì cội gốc vô minh đã Không nên cành lá của nó thảy đều giải thoát”: Các tướng hiện thấy vốn là giải thoát vì trong thật tướng của chúng, chúng là Vô tướng, là tánh Không. Chưa từng có vô minh nào tạo ra các tướng phân biệt sai khác để tạo thành sanh tử cả. Chưa từng có vô minh nào để biến quang minh thành các tướng. Chưa từng có vô minh nào để biến cái như huyễn thành các tướng có thật, được vật chất hóa.

Cả ba lần thuyết pháp đều nhấn mạnh đến Không, tánh Không. Nhưng như những phẩm trước đã nói, Không –Bất Không mới trọn nghĩa Phật tánh. Thế nên khi “cội gốc vô minh đã Không”, sanh tử đã Không thì không phải là không có gì hết, mà có Bất Không, tức là tất cả công đức. Công đức ấy kinh nói là “thường tịch diệt quang, gọi là Đại Niết bàn”. 

Suốt kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật và các Đại Bồ tát đã khai thị Pháp thân Phật (các kinh khác gọi là “Pháp thân của tất cả chư Phật”). Ngay từ những phẩm đầu, Đức Phật đã cho biết thân ngài mà mọi người đều thấy chỉ là Hóa thân, sự hóa hiện, thị hiện của Pháp thân vốn không sanh không diệt:

Này Ca Diếp! Như đề hồ, tánh nó thanh tịnh. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải do cha mẹ hòa hiệp mà sanh, tánh Như Lai thanh tịnh, sở dĩ thị hiệncha mẹ là vì muốn hóa độ chúng sanh. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cùng giải thoát không hai không khác” (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh).

Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên này, Đức Phật với ba lần thuyết pháp sau cùng nói về Pháp thân trọn vẹn, và không phải như người bình thường hiểu là Ngài nhập Niết bàn nghĩa là “tắt mất hẳn”, mà là đưa Hóa thân trở lại Pháp thân. “Ứng tận” là chấm dứt sự thị hiện của Hóa thân hay Ứng thân, “hoàn nguyên” là đưa về, rút Hóa thân vào Pháp thân.

Pháp thân hay Phật tánh là cái mỗi người đều có, nhưng vì một lối sống sai lầm do vô minh phiền não mà không thấy, có lúc càng lạc xa. Chính xác hơn, không phải mỗi chúng sanh đều có Pháp thân Phật tánh, mà mỗi chúng sanh đều Pháp thân Phật tánh.

Sự tu hành theo kinh bắt đầu bằng niềm tin mỗi chúng ta chính là Pháp thân Phật tánh, và các pháp môn các Ba la mật là sự khai triển sự thấy biết cái Pháp thân Phật tánh vốn có sẳn ấy trong cuộc đời của mỗi người. Như thế, Nền tảng là Pháp thân Phật tánh, Con đườngPháp thân Phật tánh, và Quả là Pháp thân Phật tánh.

Đó là cái gọi là tu trên Quả, Quả thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2008)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3002)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2618)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3524)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3344)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4189)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3697)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4259)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2342)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3490)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4179)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3956)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2892)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3360)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3503)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4560)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3893)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4782)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4053)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3038)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3791)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3935)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3105)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3626)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4453)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3736)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2268)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2629)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3031)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2730)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4599)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4933)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2839)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5292)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 3303)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4387)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4954)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4717)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3256)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4562)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4291)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6156)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3512)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4029)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6023)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5420)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4065)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33131)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3181)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4158)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4741)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3097)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3818)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3558)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6557)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2772)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3231)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4588)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3460)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7309)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant