Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

23 Tháng Mười Một 202119:53(Xem: 3531)
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

 Thiền Sư S.n. Goenka
Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Why do you give so much importance to the observation of normal respiration? – Tại sao ngài nhấn mạnh việc quan hơi thở tự nhiên?

Goenkaji: Because the Buddha wanted you to. He is very clear that one must observe the breath as it is-yathabhuta. If it is long, you are aware, “it is long”; if it is short, you are aware, “it is short”. Yathabhuta. If you make your respiration unnatural, artificial, you will give more attention to change the respiration according to your wishes. Your attention will not be with the reality as it is, but with something that you have created.

Goenkaji: Bởi vì đó là ý của Đức Phật. Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Yathabhuta. Nếu hơi thở của bạn không tự nhiên, bạn sẽ cố ý để thay đổi hơi thở theo mong muốn của bạn. Sự cố ý đó của bạn sẽ không phải là với thực tế như nó đang là, mà là một thứ gì đó mà bạn tự tạo ra.

 

Therefore, we emphasize it must be always natural breath-as it comes in naturally, as it goes out naturally. If it is long, just be aware that it is long. Don’t try to make it short. If it is short, just be aware that it is short. Don’t try to make it long. If it is going through the right nostril, then observe that it is going through the right nostril. If it is going through the left nostril, then observe it through the left nostril. When it passes through both the nostrils, observe the flow through both the nostrils.

 

Do đó, chúng tôi nhấn mạnh nó phải luôn luôn là hơi thở tự nhiênđi vào một cách tự nhiên, đi ra một cách tự nhiên. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài. Đừng cố làm chậm hơi thở. Nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Đừng cố kéo dài hơi thở. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên phải, hãy quan sát rằng nó đang đi qua lỗ mũi phải. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên trái, hãy quan sát nó đi qua lỗ mũi trái. Nếu hơi thở đi qua cả hai lỗ mũi, hãy quan sát hơi thở qua cả hai lỗ mũi.

 

Then you are working according to the instructions of the Enlightened One. Don’t try to interfere with the natural flow of the breath. And if you find that the mind is wandering too much and you cannot feel the natural breath, then you may take a few-only a few-intentional breaths, slightly hard breaths, so that you can bring your mind back to the observation of the breath. You have to keep in mind that your aim is to feel the natural breath. However soft it is, however subtle it is, you must be able to feel it. That is the aim.

 

Hãy làm theo hướng dẫn của Bậc giác ngộ. Đừng cố can thiệp vào dòng chảy tự nhiên của hơi thở. Nếu bạn thấy rằng tâm trí đang lang thang quá nhiều và bạn không thể cảm nhận được hơi thở tự nhiên, thì bạn có thể lấy một vài hơi – chỉ một vài – hơi thở có chủ ý, hơi thở mạnh một chút, để bạn có thể đưa tâm trí trở lại việc quan sát hơi thở. Bạn phải ghi nhớ rằng mục đích của bạn là cảm nhận hơi thở tự nhiên. Tuy hơi thở rất nhẹ, tuy hơi thở rất tinh tế, bạn phải cảm nhận nó. Đó là mục tiêu của chúng ta.

 

Why do you want us to keep our attention at the entrance of the nostrils and above the upper lip while practicing Anapana? – Tại sao ngài muốn chúng tôi đưa sự chú tâm vào bên ngoài cửa mũi và trên môi trên trong khi thực hành Anapana?

 

Goenkaji: Because again, it is a very clear instruction given by the Enlightened One. In Patisambhidamagga, he clearly says that you must be aware of the incoming breath, the outgoing breath, and mukha – this area above the mouth. He calls it mukhanimitta. It is clearly explained in Patisambhidamagga and in Vibhanga, what is mukhanimitta: it means nasikagge, the front portion of the nose at the entrance of the nostrils. Also, the Buddha says that it must be Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara means above; ottha is lip; and majjimappadese is the middle portion. And in the Mahasatipatthana sutta, he says, establish your awareness here, parimukham satim upatthapetva. Sati means awareness; parimukham means the area above the lips.

 

Goenkaji: Đó là một chỉ dẫn rất rõ ràng được đưa ra bởi Bậc giác ngộ. Trong cuốn Patisambhidamagga, ngài nói rõ ràng rằng bạn phải nhận thức được hơi thở đi vào, hơi thở đi ra và mukha – ở khu vực trên môi trên. Ngài gọi đó là mukhanimitta. Nó được giải thích rõ ràng trong Patisambhidamagga và Vibhanga, mukhanimitta là: phần phía trước cửa mũi. Ngoài ra, Đức Phật nói rằng đó phải là Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara có nghĩa là ở trên; ottha là môi; và majjimappadese là phần giữa. Và trong bài kinh Mahasatipatthana, ngài nói, hãy đưa sự chú tâm của bạn vào đó, parimukham satim upatthapetva. Sati có nghĩa là nhận thức; parimukham có nghĩa là khu vực trên môi trên.

 

The Buddha is so clear in his instructions. We cannot deviate from his instructions. And as you practice, it becomes very clear why the Buddha chose this small area. This is the area over which the incoming breath and the outgoing breath must pass. The incoming and outgoing breath touches the area at the entrance of the nostrils and above the upper lip. That is why he wanted you to keep your attention here. For those with long noses, the breath is likely to touch the entrance of the nostrils. For those with short noses, it usually touches the area above the upper lip. So he chose this area-either at the entrance of the nostril, nasikagge, or the middle part of the upper lip.

 

Đức Phật chỉ rất rõ ràng. Chúng ta không thể làm khác đi. Và khi bạn thực hành, bạn sẽ hiểu tại sao Đức Phật chọn khu vực nhỏ này. Đây là khu vực mà hơi thở đi vào đi ra. Hơi thở đi vào đi ra chạm vào khu vực cửa mũi và phía trên môi trên. Đó là lý do tại sao ngài muốn bạn giữ sự chú tâm của bạn ở đây. Đối với những người có mũi dài, hơi thở có thể chạm vào lối vào của cửa mũi. Đối với những người có mũi ngắn, nó thường chạm vào khu vực phía trên môi trên. Vì vậy, ngài đã chọn khu vực này – ở khu vực cửa mũi, chóp mũi, hoặc phần giữa của môi trên.

 

The Buddha does not want us to imagine that the breath is coming in or the breath is going out, you must actually feel it. When you are attentive, you can feel its touch somewhere in this area.

 

Đức Phật không muốn chúng ta tưởng tượng hơi thở đi vào hoặc hơi thở đi ra, bạn phải thực sự cảm nhận được nó. Khi bạn chú ý, bạn có thể cảm thấy cảm giácđâu đó trong khu vực này.

 

For a very new student, we say even if you feel the breath inside the nostrils, it is okay. But ultimately you have to be aware of the touch of the breath in this area. Why? Because for samadhi, concentration of mind, citta ekaggata [one-pointedness of the mind] is very important. For a new student, a bigger triangle including the whole area of the nose is okay. But within a day or two, the student is asked to observe a smaller area. It becomes very clear, as you keep on progressing on the path given by the Buddha, that the area of concentration must be as small as possible.

 

Đối với một thiền sinh mới, ngay cả khi bạn cảm thấy hơi thở bên trong lỗ mũi thì vẫn không sao cả. Nhưng cuối cùng bạn phải nhận thức được sự xúc chạm của hơi thở trong khu vực này. Tại sao? Bởi vì đối với samadhi, sự định tâm, citta ekaggata (giữ tâm an trụ tại một điểm) là rất quan trọng. Đối với một thiền sinh mới, thì bạn có thể quan sát khu vực tam giác lớn hơn ở xung quanh mũi. Nhưng sau một hoặc hai ngày, thiền sinh được yêu cầu quan sát một khu vực nhỏ hơn. Điều này trở nên rất rõ ràng, khi bạn tiếp tục tiến bộ trên con đường do Đức Phật chỉ dạy, khu vực tập trung phải càng nhỏ càng tốt.

 

It also becomes clear that the object of concentration must be very subtle. That is why when the mind is wandering too much, you are allowed to take a few hard breaths, but after that, you must come back to the natural breath. And as your mind gets concentrated, the breath will become softer and softer, finer and finer, shorter and shorter. You won’t have to make any effort. It happens naturally. Sometimes the breath becomes so short, so fine, like a thin thread, that it feels as if immediately after coming out it makes a U-turn and enters the nostrils again. So when the area is small, the object of concentration is very subtle, and you continue without interruption, the mind becomes very sharp.

 

hiển nhiên đối tượng của sự tập trung phải rất tinh tế. Đó là lý do tại sao khi tâm trí đi lang thang quá nhiều, bạn được phép hít một vài hơi thật mạnh, nhưng sau đó, bạn phải trở lại với hơi thở tự nhiên. Và khi tâm trí của bạn được tập trung, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, mềm mại hơn, tinh tế hơn, ngắn hơn và ngắn hơn nữa. Bạn không cần phải gắng gượng ép. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Đôi khi hơi thở trở nên rất ngắn, rất vi tế, giống như một sợi chỉ mỏng, cảm giác như thể ngay lập tức sau khi đi ra, nó liền quay lại vào lỗ mũi một lần nữa. Vì vậy, đối với một khu vực nhỏ hơn, sẽ dẫn đến sự tập trung rất tinh tế, và nếu tiếp tục không bị gián đoạn, tâm trí trở nên rất nhạy bén.

 

The Buddha was sabbaññu – he knew everything so clearly. There is an important nerve centre in this area. When your mind is sharp and you are aware of this area, your mind becomes so sensitive that you start feeling some sensation in this area. The purpose of Anapana, the purpose of samadhi, is to take the next step of Vipassana. Vipassana is not Vipassana if you don’t feel sensations.

 

Đức Phật là sabbaññu (Bậc Toàn Giác) – Ngài biết mọi thứ rất rõ ràng. Có một trung tâm thần kinh quan trọng tại khu vực này. Khi tâm trí của bạn sắc bén và bạn nhận thức được khu vực này, tâm trí của bạn trở nên nhạy bén đến mức bạn bắt đầu cảm thấy một số cảm giác tại khu vực này. Mục đích của Anapana (quan sát hơi thở ra vào), mục đích của Samadhi, là tạo nền tảng cho Vipassana. Vipassana không phải là Vipassana nếu bạn không cảm nhận được cảm giác.

 

Therefore, he taught us in a very systematic manner. Start on a small area with the natural breath. The breath will become subtler and subtler; the mind will become sharper and sharper. This area will become very sensitive and you will start feeling sensations. Everywhere around the world, people coming to the courses and practicing the technique given by the Enlightened One, start feeling sensations in this area on the second or third day. The Buddha taught the technique, the path, very systematically. We don’t want to deviate from what he taught.

 

Ngài đã dạy chúng ta một cách rất có hệ thống. Bắt đầu tại một khu vực nhỏ với hơi thở tự nhiên. Hơi thở sẽ trở nên tinh tếtinh tế hơn; tâm trí sẽ trở nên sắc bén và sắc bén hơn. Khu vực này sẽ trở nên rất nhạy bén và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy những cảm giác. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người đến các khoá thiền này và thực hành kỹ thuật được đưa ra bởi Bậc giác ngộ, và họ bắt đầu cảm thấy những cảm giác ở khu vực này vào ngày thứ hai hoặc thứ ba. Đức Phật đã dạy kỹ thuật, con đường này một cách rất có hệ thống. Chúng tôi không muốn đi chệch khỏi những gì Đức Phật đã dạy.

 

Coming back to the first question of why we work with the natural breath – there are other techniques especially in India where one controls the breath, for example, the technique of Pranayama. One takes a deep breath and stops for some time; one exhales and stops for some time. We don’t condemn other techniques. We understand that Pranayama is good for physical health. But the Buddha wanted us to use the awareness of the natural breath to reach the next step of feeling sensations. This controlled breathing, Pranayama, is not suitable because it is artificial breath.

 

Quay trở lại câu hỏi đầu tiên về lý do tại sao phải là với hơi thở tự nhiên – có những kỹ thuật khác đặc biệt là ở Ấn Độ nơi người ta điều khiển hơi thở, ví dụ, kỹ thuật của Pranayama. Người ta hít một hơi thật sâu và dừng lại một lúc; thở ra và dừng lại một lúc. Chúng tôi không lên án các kỹ thuật khác. Chúng tôi hiểu rằng Pranayama tốt cho sức khỏe thể chất. Nhưng Đức Phật muốn chúng ta sử dụng nhận thức về hơi thở tự nhiên để đạt được bước tiếp theo là cảm nhận cảm giác giác. Hơi thởkiểm soát này, Pranayama, không phù hợp vì đó là hơi thở nhân tạo.

 

Buddha wanted us to observe natural breath because it takes us to the stage where we can practice Vipassana. Those who want to practice Pranayama for health reasons, let them practice it separately. Don’t connect it with Vipassana. When you practice Vipassana, natural breath is important, yathabhuta, as it is.

 

Đức Phật muốn chúng ta quan sát hơi thở tự nhiên vì nó đưa chúng ta đến giai đoạn mà chúng ta có thể thực hành Vipassana. Những người muốn thực hành Pranayama vì lý do sức khỏe, hãy để họ thực hành theo cách của họ. Đừng kết nối nó với Vipassana. Khi bạn thực hành Vipassana, hơi thở tự nhiên rất quan trọng, yathabhuta, như nó đang là.

 

Why should we work with respiration only? – Tại sao chúng ta chỉ nên làm việc với hơi thở?

 

Goenkaji: Respiration is the truth. Respiration is related to your mind and matter, and you are here to make an analytical study of mind and matter. So you start with respiration, and then go to a deeper level of mind and matter.

 

Goenkaji: Hơi thởsự thật. Hơi thởliên quan đến tâm trí và cơ thể của bạn. Bạn ở đây để thực hiện một nghiên cứu phân tích về tâm trí và cơ thể. Vì vậy, bạn bắt đầu với hơi thở, và sau đó đi đến một mức độ sâu hơn của tâm trí và cơ thể.

Nguồn VRIDhamma.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19364)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24631)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15745)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37831)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13106)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13206)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17389)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21640)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12819)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13659)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28630)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23402)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28886)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32188)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12005)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14526)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34485)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13114)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14463)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12540)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13155)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12318)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17668)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18438)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14299)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12998)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12152)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10840)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11082)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28908)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25285)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25774)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18678)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23042)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34553)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32191)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant