Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

Tuesday, November 23, 202119:53(View: 4254)
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

 Thiền Sư S.n. Goenka
Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Why do you give so much importance to the observation of normal respiration? – Tại sao ngài nhấn mạnh việc quan hơi thở tự nhiên?

Goenkaji: Because the Buddha wanted you to. He is very clear that one must observe the breath as it is-yathabhuta. If it is long, you are aware, “it is long”; if it is short, you are aware, “it is short”. Yathabhuta. If you make your respiration unnatural, artificial, you will give more attention to change the respiration according to your wishes. Your attention will not be with the reality as it is, but with something that you have created.

Goenkaji: Bởi vì đó là ý của Đức Phật. Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Yathabhuta. Nếu hơi thở của bạn không tự nhiên, bạn sẽ cố ý để thay đổi hơi thở theo mong muốn của bạn. Sự cố ý đó của bạn sẽ không phải là với thực tế như nó đang là, mà là một thứ gì đó mà bạn tự tạo ra.

 

Therefore, we emphasize it must be always natural breath-as it comes in naturally, as it goes out naturally. If it is long, just be aware that it is long. Don’t try to make it short. If it is short, just be aware that it is short. Don’t try to make it long. If it is going through the right nostril, then observe that it is going through the right nostril. If it is going through the left nostril, then observe it through the left nostril. When it passes through both the nostrils, observe the flow through both the nostrils.

 

Do đó, chúng tôi nhấn mạnh nó phải luôn luôn là hơi thở tự nhiênđi vào một cách tự nhiên, đi ra một cách tự nhiên. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài. Đừng cố làm chậm hơi thở. Nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Đừng cố kéo dài hơi thở. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên phải, hãy quan sát rằng nó đang đi qua lỗ mũi phải. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên trái, hãy quan sát nó đi qua lỗ mũi trái. Nếu hơi thở đi qua cả hai lỗ mũi, hãy quan sát hơi thở qua cả hai lỗ mũi.

 

Then you are working according to the instructions of the Enlightened One. Don’t try to interfere with the natural flow of the breath. And if you find that the mind is wandering too much and you cannot feel the natural breath, then you may take a few-only a few-intentional breaths, slightly hard breaths, so that you can bring your mind back to the observation of the breath. You have to keep in mind that your aim is to feel the natural breath. However soft it is, however subtle it is, you must be able to feel it. That is the aim.

 

Hãy làm theo hướng dẫn của Bậc giác ngộ. Đừng cố can thiệp vào dòng chảy tự nhiên của hơi thở. Nếu bạn thấy rằng tâm trí đang lang thang quá nhiều và bạn không thể cảm nhận được hơi thở tự nhiên, thì bạn có thể lấy một vài hơi – chỉ một vài – hơi thở có chủ ý, hơi thở mạnh một chút, để bạn có thể đưa tâm trí trở lại việc quan sát hơi thở. Bạn phải ghi nhớ rằng mục đích của bạn là cảm nhận hơi thở tự nhiên. Tuy hơi thở rất nhẹ, tuy hơi thở rất tinh tế, bạn phải cảm nhận nó. Đó là mục tiêu của chúng ta.

 

Why do you want us to keep our attention at the entrance of the nostrils and above the upper lip while practicing Anapana? – Tại sao ngài muốn chúng tôi đưa sự chú tâm vào bên ngoài cửa mũi và trên môi trên trong khi thực hành Anapana?

 

Goenkaji: Because again, it is a very clear instruction given by the Enlightened One. In Patisambhidamagga, he clearly says that you must be aware of the incoming breath, the outgoing breath, and mukha – this area above the mouth. He calls it mukhanimitta. It is clearly explained in Patisambhidamagga and in Vibhanga, what is mukhanimitta: it means nasikagge, the front portion of the nose at the entrance of the nostrils. Also, the Buddha says that it must be Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara means above; ottha is lip; and majjimappadese is the middle portion. And in the Mahasatipatthana sutta, he says, establish your awareness here, parimukham satim upatthapetva. Sati means awareness; parimukham means the area above the lips.

 

Goenkaji: Đó là một chỉ dẫn rất rõ ràng được đưa ra bởi Bậc giác ngộ. Trong cuốn Patisambhidamagga, ngài nói rõ ràng rằng bạn phải nhận thức được hơi thở đi vào, hơi thở đi ra và mukha – ở khu vực trên môi trên. Ngài gọi đó là mukhanimitta. Nó được giải thích rõ ràng trong Patisambhidamagga và Vibhanga, mukhanimitta là: phần phía trước cửa mũi. Ngoài ra, Đức Phật nói rằng đó phải là Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara có nghĩa là ở trên; ottha là môi; và majjimappadese là phần giữa. Và trong bài kinh Mahasatipatthana, ngài nói, hãy đưa sự chú tâm của bạn vào đó, parimukham satim upatthapetva. Sati có nghĩa là nhận thức; parimukham có nghĩa là khu vực trên môi trên.

 

The Buddha is so clear in his instructions. We cannot deviate from his instructions. And as you practice, it becomes very clear why the Buddha chose this small area. This is the area over which the incoming breath and the outgoing breath must pass. The incoming and outgoing breath touches the area at the entrance of the nostrils and above the upper lip. That is why he wanted you to keep your attention here. For those with long noses, the breath is likely to touch the entrance of the nostrils. For those with short noses, it usually touches the area above the upper lip. So he chose this area-either at the entrance of the nostril, nasikagge, or the middle part of the upper lip.

 

Đức Phật chỉ rất rõ ràng. Chúng ta không thể làm khác đi. Và khi bạn thực hành, bạn sẽ hiểu tại sao Đức Phật chọn khu vực nhỏ này. Đây là khu vực mà hơi thở đi vào đi ra. Hơi thở đi vào đi ra chạm vào khu vực cửa mũi và phía trên môi trên. Đó là lý do tại sao ngài muốn bạn giữ sự chú tâm của bạn ở đây. Đối với những người có mũi dài, hơi thở có thể chạm vào lối vào của cửa mũi. Đối với những người có mũi ngắn, nó thường chạm vào khu vực phía trên môi trên. Vì vậy, ngài đã chọn khu vực này – ở khu vực cửa mũi, chóp mũi, hoặc phần giữa của môi trên.

 

The Buddha does not want us to imagine that the breath is coming in or the breath is going out, you must actually feel it. When you are attentive, you can feel its touch somewhere in this area.

 

Đức Phật không muốn chúng ta tưởng tượng hơi thở đi vào hoặc hơi thở đi ra, bạn phải thực sự cảm nhận được nó. Khi bạn chú ý, bạn có thể cảm thấy cảm giácđâu đó trong khu vực này.

 

For a very new student, we say even if you feel the breath inside the nostrils, it is okay. But ultimately you have to be aware of the touch of the breath in this area. Why? Because for samadhi, concentration of mind, citta ekaggata [one-pointedness of the mind] is very important. For a new student, a bigger triangle including the whole area of the nose is okay. But within a day or two, the student is asked to observe a smaller area. It becomes very clear, as you keep on progressing on the path given by the Buddha, that the area of concentration must be as small as possible.

 

Đối với một thiền sinh mới, ngay cả khi bạn cảm thấy hơi thở bên trong lỗ mũi thì vẫn không sao cả. Nhưng cuối cùng bạn phải nhận thức được sự xúc chạm của hơi thở trong khu vực này. Tại sao? Bởi vì đối với samadhi, sự định tâm, citta ekaggata (giữ tâm an trụ tại một điểm) là rất quan trọng. Đối với một thiền sinh mới, thì bạn có thể quan sát khu vực tam giác lớn hơn ở xung quanh mũi. Nhưng sau một hoặc hai ngày, thiền sinh được yêu cầu quan sát một khu vực nhỏ hơn. Điều này trở nên rất rõ ràng, khi bạn tiếp tục tiến bộ trên con đường do Đức Phật chỉ dạy, khu vực tập trung phải càng nhỏ càng tốt.

 

It also becomes clear that the object of concentration must be very subtle. That is why when the mind is wandering too much, you are allowed to take a few hard breaths, but after that, you must come back to the natural breath. And as your mind gets concentrated, the breath will become softer and softer, finer and finer, shorter and shorter. You won’t have to make any effort. It happens naturally. Sometimes the breath becomes so short, so fine, like a thin thread, that it feels as if immediately after coming out it makes a U-turn and enters the nostrils again. So when the area is small, the object of concentration is very subtle, and you continue without interruption, the mind becomes very sharp.

 

hiển nhiên đối tượng của sự tập trung phải rất tinh tế. Đó là lý do tại sao khi tâm trí đi lang thang quá nhiều, bạn được phép hít một vài hơi thật mạnh, nhưng sau đó, bạn phải trở lại với hơi thở tự nhiên. Và khi tâm trí của bạn được tập trung, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, mềm mại hơn, tinh tế hơn, ngắn hơn và ngắn hơn nữa. Bạn không cần phải gắng gượng ép. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Đôi khi hơi thở trở nên rất ngắn, rất vi tế, giống như một sợi chỉ mỏng, cảm giác như thể ngay lập tức sau khi đi ra, nó liền quay lại vào lỗ mũi một lần nữa. Vì vậy, đối với một khu vực nhỏ hơn, sẽ dẫn đến sự tập trung rất tinh tế, và nếu tiếp tục không bị gián đoạn, tâm trí trở nên rất nhạy bén.

 

The Buddha was sabbaññu – he knew everything so clearly. There is an important nerve centre in this area. When your mind is sharp and you are aware of this area, your mind becomes so sensitive that you start feeling some sensation in this area. The purpose of Anapana, the purpose of samadhi, is to take the next step of Vipassana. Vipassana is not Vipassana if you don’t feel sensations.

 

Đức Phật là sabbaññu (Bậc Toàn Giác) – Ngài biết mọi thứ rất rõ ràng. Có một trung tâm thần kinh quan trọng tại khu vực này. Khi tâm trí của bạn sắc bén và bạn nhận thức được khu vực này, tâm trí của bạn trở nên nhạy bén đến mức bạn bắt đầu cảm thấy một số cảm giác tại khu vực này. Mục đích của Anapana (quan sát hơi thở ra vào), mục đích của Samadhi, là tạo nền tảng cho Vipassana. Vipassana không phải là Vipassana nếu bạn không cảm nhận được cảm giác.

 

Therefore, he taught us in a very systematic manner. Start on a small area with the natural breath. The breath will become subtler and subtler; the mind will become sharper and sharper. This area will become very sensitive and you will start feeling sensations. Everywhere around the world, people coming to the courses and practicing the technique given by the Enlightened One, start feeling sensations in this area on the second or third day. The Buddha taught the technique, the path, very systematically. We don’t want to deviate from what he taught.

 

Ngài đã dạy chúng ta một cách rất có hệ thống. Bắt đầu tại một khu vực nhỏ với hơi thở tự nhiên. Hơi thở sẽ trở nên tinh tếtinh tế hơn; tâm trí sẽ trở nên sắc bén và sắc bén hơn. Khu vực này sẽ trở nên rất nhạy bén và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy những cảm giác. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người đến các khoá thiền này và thực hành kỹ thuật được đưa ra bởi Bậc giác ngộ, và họ bắt đầu cảm thấy những cảm giác ở khu vực này vào ngày thứ hai hoặc thứ ba. Đức Phật đã dạy kỹ thuật, con đường này một cách rất có hệ thống. Chúng tôi không muốn đi chệch khỏi những gì Đức Phật đã dạy.

 

Coming back to the first question of why we work with the natural breath – there are other techniques especially in India where one controls the breath, for example, the technique of Pranayama. One takes a deep breath and stops for some time; one exhales and stops for some time. We don’t condemn other techniques. We understand that Pranayama is good for physical health. But the Buddha wanted us to use the awareness of the natural breath to reach the next step of feeling sensations. This controlled breathing, Pranayama, is not suitable because it is artificial breath.

 

Quay trở lại câu hỏi đầu tiên về lý do tại sao phải là với hơi thở tự nhiên – có những kỹ thuật khác đặc biệt là ở Ấn Độ nơi người ta điều khiển hơi thở, ví dụ, kỹ thuật của Pranayama. Người ta hít một hơi thật sâu và dừng lại một lúc; thở ra và dừng lại một lúc. Chúng tôi không lên án các kỹ thuật khác. Chúng tôi hiểu rằng Pranayama tốt cho sức khỏe thể chất. Nhưng Đức Phật muốn chúng ta sử dụng nhận thức về hơi thở tự nhiên để đạt được bước tiếp theo là cảm nhận cảm giác giác. Hơi thởkiểm soát này, Pranayama, không phù hợp vì đó là hơi thở nhân tạo.

 

Buddha wanted us to observe natural breath because it takes us to the stage where we can practice Vipassana. Those who want to practice Pranayama for health reasons, let them practice it separately. Don’t connect it with Vipassana. When you practice Vipassana, natural breath is important, yathabhuta, as it is.

 

Đức Phật muốn chúng ta quan sát hơi thở tự nhiên vì nó đưa chúng ta đến giai đoạn mà chúng ta có thể thực hành Vipassana. Những người muốn thực hành Pranayama vì lý do sức khỏe, hãy để họ thực hành theo cách của họ. Đừng kết nối nó với Vipassana. Khi bạn thực hành Vipassana, hơi thở tự nhiên rất quan trọng, yathabhuta, như nó đang là.

 

Why should we work with respiration only? – Tại sao chúng ta chỉ nên làm việc với hơi thở?

 

Goenkaji: Respiration is the truth. Respiration is related to your mind and matter, and you are here to make an analytical study of mind and matter. So you start with respiration, and then go to a deeper level of mind and matter.

 

Goenkaji: Hơi thởsự thật. Hơi thởliên quan đến tâm trí và cơ thể của bạn. Bạn ở đây để thực hiện một nghiên cứu phân tích về tâm trí và cơ thể. Vì vậy, bạn bắt đầu với hơi thở, và sau đó đi đến một mức độ sâu hơn của tâm trí và cơ thể.

Nguồn VRIDhamma.org

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 93)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 142)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 215)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảo là tin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 244)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộ và giải thoát.
(View: 246)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 319)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 251)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 338)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 309)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 555)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 323)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 559)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 715)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 593)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 548)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 555)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 507)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 429)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 531)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 811)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 615)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 553)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 758)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 923)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 737)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 747)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 999)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 946)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 1000)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 794)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1188)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 984)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 909)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 937)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 1010)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 931)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1400)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 983)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 1000)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 1107)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1248)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 1110)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 1009)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 1076)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 998)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 1172)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1242)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1374)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 1039)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1124)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1203)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1483)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1237)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1484)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1356)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1468)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM