Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Huyễn Làm Việc Huyễn

26 Tháng Mười Một 202120:07(Xem: 2377)
Người Huyễn Làm Việc Huyễn

NGƯỜI HUYỄN LÀM VIỆC HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

 
Công Đức Chiêm Bái Phật Tích


Người thực hành Trí huệ toàn thiện (Bát nhã ba la mật) quán thấy tất cả pháp là Không, như mộng, như huyễn, như hóa… cho đến chúng sanh cũng rốt ráo bất khả đắc:

 

Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm.

Vì sao thế? Vì người làm (tác giả) bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi. Vì sao thế? Vì sắc chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, thọ tưởng hành thức chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, cho đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, làm nhân duyên sanh thọ chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Ngã, nhân cho đến người biết, người thấy, chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.

Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Vì sao thế? Vì rốt ráo bất khả đắc. Huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy…

Tu Bồ Đề! Pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết tríNhất thiết chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Do nhân duyên ấy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm”.

(Phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Công việc của Bồ tát, theo tất cả các kinh điển Đại thừa là “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Ở đoạn kinh này “đại trang nghiêm” có nghĩa như vậy. Bồ tát thực hành Trí huệ soi thấy tánh Không của tất cả các pháp, an trụ trong tánh Không ấy mà giảng nói cho chúng sanh về tánh Không để giải thoát cho họ.

Tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp thế gianxuất thế gian: “Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp làm ra, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp làm ra”. “Pháp tạo tác, pháp làm ra” là pháp hữu vi, pháp hợp tạo. Tánh Không chẳng phải là pháp hữu vi, pháp hợp tạo, chẳng phải là do duyên sanh. Thiền định thiền quán “cái chẳng phải là pháp làm ra” là thiền định thiền quán tánh Không.

Tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, nên tất cả các pháp đều là tánh Không.

Chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp sanh khởi, đây nói về phương diện vô sanh của tánh Không.

Sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mộng, huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Cho đến các pháp xuất thế gian, “pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, thật tế, nhất thiết trí, nhất thiết trí chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Ở trước chỉ nói chẳng phải tạo tác, sanh khởi, ở đây lại nói thêm “chẳng phải không tạo tác”. Chúng ta cần phải hiểu như thế nào?

Chẳng phải tạo tác, sanh khởitánh Không, một tánh Không không sanh, không có tướng, không có sự xuất hiện. Nhưng tánh Không không chỉ có phương diện không sanh, mà còn có phương diện “chẳng phải không tạo tác”, nghĩa là phương diện tạo tác, làm ra, có sanh khởi, có tướng, có xuất hiện. Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Tánh Không không chỉ hoàn toàn là Không, mà còn có sự xuất hiện, còn có tướng sắc xuất hiện, nhưng sự xuất hiện của sắc vẫn là tánh Không. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đây chính là ý nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa… Mộng, huyễn, hóa… là có sự xuất hiện, nhưng sự xuất hiện ấy là tánh Không, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu nên nói là như mộng, như huyễn, như hóa. Sắc có xuất hiện, mắt có xuất hiện, nhãn xúc có xuất hiện, nhưng như mộng, như huyễn, như hóa, như bóng trong gương.

 

Tiếp theo đoạn kinh ghi lời của Đức Phật ở trên, ngài Tu Bồ Đề! nói:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa Phật nói thì sắc không buộc, không thoát; thọ tưởng hành thức không buộc không thoát.

Ngài Phú Lâu Na hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thế nào là sắc không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức là không buộc không thoát?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Sắc như mộng không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức như mộng không buộc không thoát. Sắc như bóng, như vang, như huyễn, như sóng nắng, như biến hóa không buộc không thoát…

Thế gian, xuất thế gianhữu lậu cùng vô lậu, sắc thọ tưởng hành thức cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Tất cả pháp cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Này ngài Phú Lâu Na! Bố thí ba la mật đến Bát nhã ba la mật không buộc không thoát. Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát…

Đại Bồ tát an trụ trong sáu ba la mật không buộc không thoát, cho đến an trụ nhất thiết chủng trí không buộc không thoát, thành tựu chúng sanh không buộc không thoát, tịnh Phật quốc độ không buộc không thoát, cúng dường chư Phật không buộc không thoát, nghe pháp không buộc không thoát, trọn chẳng lìa chư Phật không buộc không thoát… chuyển pháp luân không buộc không thoát, an lập chúng sanh nơi Tam thừa không buộc không thoát.

Như vậy, ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ tát thực hành sáu ba la mật không buộc không thoát, vì biết tất cả pháp đều không buộc không thoát, vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Đây gọi là đại Bồ tát không buộc không thoát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến các thánh pháp như sáu ba la mật, Nhất thiết chủng trí cho đến chúng sanh… đều như mộng, như huyễn, như hóa. Và vì như mộng như huyễn như hóa nên đều không buộc không thoát, không trói buộc không giải thoát.

Tất cả các pháp đều như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Như mộng như huyễn, như hóa… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không buộc không thoát vì vẫn là tánh Không. “Vô sở hữu, lìa, tịch diệt, vô sanh” không có nghĩa là không có gì cả, hoàn toàn vắng lặng, bất động, không có pháp nào sanh ra. Tất cả có xuất hiện, có chuyển động, có sanh ra nhưng xuất hiện, chuyển động, sanh ra trên nền tảng tánh Không, vô tướng, bất động, vô sanh nên như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Thế nên, xuất hiện mà không xuất hiện, không xuất hiệnxuất hiện; sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh. Như câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh, có sắc xuất hiện nhưng đồng thời là Không, là Không nhưng đồng thời có sắc xuất hiện: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đó là nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa…, không buộc không thoát.

Bồ tát quán thấy như vậy thì thấu rõ tánh Khôngđược giải thoát, và ở trong tánh Không này mà giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn. Khi giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn, Bồ tát cũng giải thoát khỏi cả công việc làm lợi lạc cho chúng sanh này.

 

Tu Bồ Đề! Ví như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm ra đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, cho đến các thứ cần dùng. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đối với nhà huyễn thuật ấy thật có đại chúng để cung cấp cho chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không có thật.

- Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, tuy có bố thíthật không có chỗ bố thí. Vì sao thế? Vì tướng các pháp như huyễn vậy” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Không những Bồ tát như nhà huyễn thuật hóa làm ra chúng sanh để bố thí cho họ, mà chính Bồ tát cũng là người do biến hóa, “đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp cho chúng sanh”. Người bố thí, người nhận bố thí, và vật được bố thí đều như huyễn thuật, như biến hóa. Tất cả đều được làm trong tánh Không nên tất cả đều được giải thoát.

 

Đức Phật bảo A Nan: Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc, Thanh Văn, Bồ tát không đối hiện trước mắt, các pháp cũng không đối hiện trước mắt, các pháp không thấy nhau, các pháp không biết nhau. Vì các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn. Như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt. Bồ tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp. Bồ tát học như vậy là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các Ba la mật phải học Bát nhã ba la mật. Học như vậy gọi là đệ nhất học, là tối thượng học, là vi diệu học. Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ” (phẩm Chúc Lụy, thứ 66).

 

Các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chẳng đối lập nhau, vì sao thế? “Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh, nên không buộc không thoát”. Trong khi đó người mê lầm thì thấy có đối vật, đối tượng trước mắt. Một khi có đối tượng bèn có chủ thể, từ đó mà có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng che lấp tánh Không.

Các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn, nhưng vì vô minh phân biệt nên con người thấy ngược lại với thật tướng tánh Không: có sự thấy, có sự biết do phân biệt, có làm, có động, có nắm bắt, có nghĩ bàn. Thấy có các pháp ngược lại với thật tướng tánh Không nên có sanh tử khổ đau, do chính cái thấy sai lầm của mình.

Người thấy tánh Không không thấy có đối vật, đối tượng. Và nếu có sự xuất hiện thì sự xuất hiện ấy như mộng, như huyễn, như hóa… không có vật đối hiện thật trước mắt. Cho nên người thực hành trí huệ tánh Không thì “như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt”. Nếu không thấy tất cả mọi sự xuất hiệnvô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn như mộng… mà thấy tất cả mọi sự xuất hiện là có thật, khi ấy tất cả mọi sự xuất hiện biến thành tất cả sanh tử.

Bồ tát hành như người huyễn là hành trí huệ Bát nhã. Và học như vậy, hành như vậy là làm an lạc lợi ích cho tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ, vì hành như vậy là hành trong tánh Không, không có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trí huệ tánh Không luôn luôn đi cùng với từ bi.

Người huyễn thì không có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng và khi không có bốn tướng ấy thì đó là tướng Như, là pháp tánh, là thật tế.

 

“- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát được Nhất thiết chủng trí như tướng Như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như tướng Như?

- Này Tu Bồ Đề! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật tế?

- Này Tu Bồ Đề! Như pháp tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như pháp tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Ngã, chúng sanh, thọ mạng có thể có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể có được.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng chẳng thể có được thì sao lại nói có ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh? Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói có tất cả pháp thì sẽ được Nhất thiết chủng trí” (phẩm Tam Huệ, thứ 70). 

 

Thực hành Trí huệ tánh Không là không thấy có pháp, không chỗ làm, như người biến hóa độ chúng sanh biến hóa.

 

- “Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy có sắc, cho đến chẳng thấy có Vô thượng Bồ đề.

Này Tu Bồ Đề! Vì không chỗ làm mà đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật. Vì sao thế? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không chỗ tạo tác, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác. Vô thượng Bồ đề cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác, đại Bồ tát cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật không chỗ làm, không chỗ tạo tác…

- Này Tu Bồ Đề! Phật cũng như vậy, biết các pháp như biến hóa. Như người biến hóa độ chúng sanh biến hóakhông thậtchúng sanh để độ.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, hành như người biến hóa hành” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Người huyễn làm việc huyễn. Năng lực của người huyễn thật phi thường vì không còn những chướng ngại chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng. Càng phá trừ được chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng thì năng lực của người huyễn càng được khai mở. Thế nên, Kinh cho chúng ta thấy rằng bậc có năng lực tối thượng, Đức Phật, đồng với người huyễn, người hóa tối thượng. Bậc người huyễn, người hóa tối thượng, bậc có năng lực tối thượng cũng là phước điền tối thượng.

Ở đoạn tiếp theo của phẩm Tam Huệ, kinh nói:

 

“- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì Phật cùng người hóa có gì khác?

- Này Tu Bồ Đề! Phật và người hóa không khác. Vì sao thế? Vì Phật hay làm sự việc, người hóa cũng hay làm sự việc.

- Tu Bồ Đề! Tất cả chúng sanh thế gian đều cho là Phật có diệt độ thật. Nhưng này Tu Bồ Đề! Người hóa thật không sanh không diệt.

Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã ba la mật phải tin và biết rằng các pháp như huyễn hóa.

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật và người hóa của Phật không sai khác nhau thì làm sao khiến người bố thí, cúng dường thanh tịnh, cho đến được phước đức không cùng tận?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Phật dùng thật tướng của tất cả các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thật tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh… Vì thế nên biết rằng Phật cùng hóa Phật không sai khác, vì thật tướng của các pháp không sai khác vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật, vào trong thật tướng của các pháp như vậy. Thật tướng của các pháp chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát nhã ba la mật cho đến tướng Giác ngộ Vô thượng không hư hoại” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Như mộng, như huyễn, như hóathật tướng của tất cả pháp, đó là tánh Không. Tánh KhôngTrí huệ, đồng thờiphước điền của tất cả chúng sanh trời người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7091)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9354)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5835)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6099)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7161)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14385)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20436)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7869)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7450)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9375)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7445)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7479)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7666)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9473)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8781)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7372)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7670)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9860)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8284)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8835)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7669)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8629)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8001)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8734)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9184)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8599)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9620)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10165)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8761)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8372)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7629)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9331)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12239)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8316)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8041)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7904)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7410)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18179)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant