Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Huyễn Làm Việc Huyễn

26 Tháng Mười Một 202120:07(Xem: 2364)
Người Huyễn Làm Việc Huyễn

NGƯỜI HUYỄN LÀM VIỆC HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

 
Công Đức Chiêm Bái Phật Tích


Người thực hành Trí huệ toàn thiện (Bát nhã ba la mật) quán thấy tất cả pháp là Không, như mộng, như huyễn, như hóa… cho đến chúng sanh cũng rốt ráo bất khả đắc:

 

Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm.

Vì sao thế? Vì người làm (tác giả) bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi. Vì sao thế? Vì sắc chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, thọ tưởng hành thức chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, cho đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, làm nhân duyên sanh thọ chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Ngã, nhân cho đến người biết, người thấy, chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.

Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Vì sao thế? Vì rốt ráo bất khả đắc. Huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy…

Tu Bồ Đề! Pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết tríNhất thiết chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Do nhân duyên ấy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm”.

(Phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Công việc của Bồ tát, theo tất cả các kinh điển Đại thừa là “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Ở đoạn kinh này “đại trang nghiêm” có nghĩa như vậy. Bồ tát thực hành Trí huệ soi thấy tánh Không của tất cả các pháp, an trụ trong tánh Không ấy mà giảng nói cho chúng sanh về tánh Không để giải thoát cho họ.

Tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp thế gianxuất thế gian: “Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp làm ra, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp làm ra”. “Pháp tạo tác, pháp làm ra” là pháp hữu vi, pháp hợp tạo. Tánh Không chẳng phải là pháp hữu vi, pháp hợp tạo, chẳng phải là do duyên sanh. Thiền định thiền quán “cái chẳng phải là pháp làm ra” là thiền định thiền quán tánh Không.

Tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, nên tất cả các pháp đều là tánh Không.

Chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp sanh khởi, đây nói về phương diện vô sanh của tánh Không.

Sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mộng, huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Cho đến các pháp xuất thế gian, “pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, thật tế, nhất thiết trí, nhất thiết trí chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Ở trước chỉ nói chẳng phải tạo tác, sanh khởi, ở đây lại nói thêm “chẳng phải không tạo tác”. Chúng ta cần phải hiểu như thế nào?

Chẳng phải tạo tác, sanh khởitánh Không, một tánh Không không sanh, không có tướng, không có sự xuất hiện. Nhưng tánh Không không chỉ có phương diện không sanh, mà còn có phương diện “chẳng phải không tạo tác”, nghĩa là phương diện tạo tác, làm ra, có sanh khởi, có tướng, có xuất hiện. Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Tánh Không không chỉ hoàn toàn là Không, mà còn có sự xuất hiện, còn có tướng sắc xuất hiện, nhưng sự xuất hiện của sắc vẫn là tánh Không. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đây chính là ý nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa… Mộng, huyễn, hóa… là có sự xuất hiện, nhưng sự xuất hiện ấy là tánh Không, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu nên nói là như mộng, như huyễn, như hóa. Sắc có xuất hiện, mắt có xuất hiện, nhãn xúc có xuất hiện, nhưng như mộng, như huyễn, như hóa, như bóng trong gương.

 

Tiếp theo đoạn kinh ghi lời của Đức Phật ở trên, ngài Tu Bồ Đề! nói:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa Phật nói thì sắc không buộc, không thoát; thọ tưởng hành thức không buộc không thoát.

Ngài Phú Lâu Na hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thế nào là sắc không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức là không buộc không thoát?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Sắc như mộng không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức như mộng không buộc không thoát. Sắc như bóng, như vang, như huyễn, như sóng nắng, như biến hóa không buộc không thoát…

Thế gian, xuất thế gianhữu lậu cùng vô lậu, sắc thọ tưởng hành thức cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Tất cả pháp cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Này ngài Phú Lâu Na! Bố thí ba la mật đến Bát nhã ba la mật không buộc không thoát. Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát…

Đại Bồ tát an trụ trong sáu ba la mật không buộc không thoát, cho đến an trụ nhất thiết chủng trí không buộc không thoát, thành tựu chúng sanh không buộc không thoát, tịnh Phật quốc độ không buộc không thoát, cúng dường chư Phật không buộc không thoát, nghe pháp không buộc không thoát, trọn chẳng lìa chư Phật không buộc không thoát… chuyển pháp luân không buộc không thoát, an lập chúng sanh nơi Tam thừa không buộc không thoát.

Như vậy, ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ tát thực hành sáu ba la mật không buộc không thoát, vì biết tất cả pháp đều không buộc không thoát, vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Đây gọi là đại Bồ tát không buộc không thoát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến các thánh pháp như sáu ba la mật, Nhất thiết chủng trí cho đến chúng sanh… đều như mộng, như huyễn, như hóa. Và vì như mộng như huyễn như hóa nên đều không buộc không thoát, không trói buộc không giải thoát.

Tất cả các pháp đều như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Như mộng như huyễn, như hóa… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không buộc không thoát vì vẫn là tánh Không. “Vô sở hữu, lìa, tịch diệt, vô sanh” không có nghĩa là không có gì cả, hoàn toàn vắng lặng, bất động, không có pháp nào sanh ra. Tất cả có xuất hiện, có chuyển động, có sanh ra nhưng xuất hiện, chuyển động, sanh ra trên nền tảng tánh Không, vô tướng, bất động, vô sanh nên như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Thế nên, xuất hiện mà không xuất hiện, không xuất hiệnxuất hiện; sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh. Như câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh, có sắc xuất hiện nhưng đồng thời là Không, là Không nhưng đồng thời có sắc xuất hiện: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đó là nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa…, không buộc không thoát.

Bồ tát quán thấy như vậy thì thấu rõ tánh Khôngđược giải thoát, và ở trong tánh Không này mà giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn. Khi giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn, Bồ tát cũng giải thoát khỏi cả công việc làm lợi lạc cho chúng sanh này.

 

Tu Bồ Đề! Ví như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm ra đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, cho đến các thứ cần dùng. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đối với nhà huyễn thuật ấy thật có đại chúng để cung cấp cho chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không có thật.

- Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, tuy có bố thíthật không có chỗ bố thí. Vì sao thế? Vì tướng các pháp như huyễn vậy” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Không những Bồ tát như nhà huyễn thuật hóa làm ra chúng sanh để bố thí cho họ, mà chính Bồ tát cũng là người do biến hóa, “đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp cho chúng sanh”. Người bố thí, người nhận bố thí, và vật được bố thí đều như huyễn thuật, như biến hóa. Tất cả đều được làm trong tánh Không nên tất cả đều được giải thoát.

 

Đức Phật bảo A Nan: Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc, Thanh Văn, Bồ tát không đối hiện trước mắt, các pháp cũng không đối hiện trước mắt, các pháp không thấy nhau, các pháp không biết nhau. Vì các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn. Như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt. Bồ tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp. Bồ tát học như vậy là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các Ba la mật phải học Bát nhã ba la mật. Học như vậy gọi là đệ nhất học, là tối thượng học, là vi diệu học. Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ” (phẩm Chúc Lụy, thứ 66).

 

Các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chẳng đối lập nhau, vì sao thế? “Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh, nên không buộc không thoát”. Trong khi đó người mê lầm thì thấy có đối vật, đối tượng trước mắt. Một khi có đối tượng bèn có chủ thể, từ đó mà có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng che lấp tánh Không.

Các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn, nhưng vì vô minh phân biệt nên con người thấy ngược lại với thật tướng tánh Không: có sự thấy, có sự biết do phân biệt, có làm, có động, có nắm bắt, có nghĩ bàn. Thấy có các pháp ngược lại với thật tướng tánh Không nên có sanh tử khổ đau, do chính cái thấy sai lầm của mình.

Người thấy tánh Không không thấy có đối vật, đối tượng. Và nếu có sự xuất hiện thì sự xuất hiện ấy như mộng, như huyễn, như hóa… không có vật đối hiện thật trước mắt. Cho nên người thực hành trí huệ tánh Không thì “như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt”. Nếu không thấy tất cả mọi sự xuất hiệnvô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn như mộng… mà thấy tất cả mọi sự xuất hiện là có thật, khi ấy tất cả mọi sự xuất hiện biến thành tất cả sanh tử.

Bồ tát hành như người huyễn là hành trí huệ Bát nhã. Và học như vậy, hành như vậy là làm an lạc lợi ích cho tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ, vì hành như vậy là hành trong tánh Không, không có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trí huệ tánh Không luôn luôn đi cùng với từ bi.

Người huyễn thì không có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng và khi không có bốn tướng ấy thì đó là tướng Như, là pháp tánh, là thật tế.

 

“- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát được Nhất thiết chủng trí như tướng Như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như tướng Như?

- Này Tu Bồ Đề! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật tế?

- Này Tu Bồ Đề! Như pháp tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như pháp tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Ngã, chúng sanh, thọ mạng có thể có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể có được.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng chẳng thể có được thì sao lại nói có ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh? Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói có tất cả pháp thì sẽ được Nhất thiết chủng trí” (phẩm Tam Huệ, thứ 70). 

 

Thực hành Trí huệ tánh Không là không thấy có pháp, không chỗ làm, như người biến hóa độ chúng sanh biến hóa.

 

- “Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy có sắc, cho đến chẳng thấy có Vô thượng Bồ đề.

Này Tu Bồ Đề! Vì không chỗ làm mà đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật. Vì sao thế? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không chỗ tạo tác, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác. Vô thượng Bồ đề cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác, đại Bồ tát cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật không chỗ làm, không chỗ tạo tác…

- Này Tu Bồ Đề! Phật cũng như vậy, biết các pháp như biến hóa. Như người biến hóa độ chúng sanh biến hóakhông thậtchúng sanh để độ.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, hành như người biến hóa hành” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Người huyễn làm việc huyễn. Năng lực của người huyễn thật phi thường vì không còn những chướng ngại chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng. Càng phá trừ được chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng thì năng lực của người huyễn càng được khai mở. Thế nên, Kinh cho chúng ta thấy rằng bậc có năng lực tối thượng, Đức Phật, đồng với người huyễn, người hóa tối thượng. Bậc người huyễn, người hóa tối thượng, bậc có năng lực tối thượng cũng là phước điền tối thượng.

Ở đoạn tiếp theo của phẩm Tam Huệ, kinh nói:

 

“- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì Phật cùng người hóa có gì khác?

- Này Tu Bồ Đề! Phật và người hóa không khác. Vì sao thế? Vì Phật hay làm sự việc, người hóa cũng hay làm sự việc.

- Tu Bồ Đề! Tất cả chúng sanh thế gian đều cho là Phật có diệt độ thật. Nhưng này Tu Bồ Đề! Người hóa thật không sanh không diệt.

Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã ba la mật phải tin và biết rằng các pháp như huyễn hóa.

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật và người hóa của Phật không sai khác nhau thì làm sao khiến người bố thí, cúng dường thanh tịnh, cho đến được phước đức không cùng tận?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Phật dùng thật tướng của tất cả các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thật tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh… Vì thế nên biết rằng Phật cùng hóa Phật không sai khác, vì thật tướng của các pháp không sai khác vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật, vào trong thật tướng của các pháp như vậy. Thật tướng của các pháp chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát nhã ba la mật cho đến tướng Giác ngộ Vô thượng không hư hoại” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Như mộng, như huyễn, như hóathật tướng của tất cả pháp, đó là tánh Không. Tánh KhôngTrí huệ, đồng thờiphước điền của tất cả chúng sanh trời người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6090)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9350)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6408)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5973)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7494)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7308)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5195)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8071)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5922)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9593)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7382)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7405)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6210)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5307)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5854)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5652)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3961)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5697)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4076)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7514)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5713)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21890)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5595)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7045)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5011)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6437)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5805)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5008)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7047)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6039)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5563)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5874)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5997)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6813)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6434)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6074)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6464)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6148)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6347)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5592)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6896)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4562)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7775)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6013)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7268)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7695)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5493)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5142)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5649)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5510)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5514)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5016)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4258)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6036)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5630)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6288)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8526)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5232)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5798)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant