Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam Vô Lậu Học Là Gì?

31 Tháng Bảy 202215:38(Xem: 2372)
Tam Vô Lậu Học Là Gì?

Tam Vô Lậu Học Là Gì?

Thích Nữ Hằng Như

 Tam Vô Lậu Học Là Gì



I. DẪN NHẬP

Tam Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật. Lậu có nghĩa là những chất nhơ bẩn, ô uế, tượng trưng sự phiền não, khổ đau xâm chiếm tâm người chưa biết tu tập. Ngược lại, Vô lậu là tâm trong lành, sáng suốt, không bị phiền não trói buộc. Lậu cũng có nghĩa khác là rơi rớt, lưu lại, sót lại. Vô lậu thì không. Như vậy Vô Lậu Học là môn học giúp hành giả được tự do tự tại, đoạn tận mọi phiền não khổ đau, không còn rơi rớt trong luân hồi sanh tử.

Tam Vô Lậu Học phát xuất từ bài kinh đầu tiên Đức Phật giảng dạy cho năm anh em tôn giả A-Nhã Kiều-Trần-Như tại Vườn Nai. Đó là kinh “Chuyển Pháp Luân” gồm hai bài pháp thoại Tứ Diệu Đế và Vô Ngã Tướng.

Nội dung Kinh Tứ Diệu Đế nói về bốn chân lýChân lý thứ Nhất là thực trạng đau khổ của con người gọi là Khổ đếChân lý thứ Hai là truy tìm nguồn gốc gây ra thực trạng phiền não gọi là Tập đế. Đế thứ Ba, chấm dứt toàn bộ nguyên nhân gây ra khổ đau gọi là Diệt đế, trải nghiệm an lạc hạnh phúc, cao nhất là Niết-Bàn. Niết-Bàn không phải là cảnh giới hay một nơi chốn. Niết-Bàn là thái độ sống, với trạng thái tâm thanh tịnhan lạc, khi toàn bộ khổ đau và nguyên nhân tạo ra khổ đau đã đoạn tận. Gần nhất cũng có thể hiểu Niết-Bàn là trải nghiệm trạng thái tâm bây giờ và ở đây. Muốn trải nghiệm Niết-bàn hay Diệt đếhành giả phải tu tập thực hành theo đế thứ Tư là Đạo Đế.

Đạo đế gồm tám nhánh tu tập, có thể chia thành ba nhóm. Đầu tiên là nhóm Trí Tuệ gồm Chánh tri kiếnChánh tư duy. Nhóm thứ Hai là Giới đức hay Đạo đức bao gồm Chánh ngữChánh nghiệpChánh mạng. Nhóm thứ Ba là Thiền Định gồm Chánh tinh tấnChánh niệm và Chánh định.

Hành giả tu tậpthành tựu Bát Chánh Đạo tức thành tựu Tam Vô Lậu Học: Giới, Định, Tuệ có nghĩa là hành giả đã chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn, không còn bị trói buộc trong Tam giới nữa.

 

II. GIỚI VÔ LẬU HỌC

Giới nguyên gốc từ tiếng Phạn là “Sĩla”. Tàu dịch là Giới có nghĩa là phòng bị, răn cấm, câu thúc.  Giới ở đây, nói cho đủ là giới luật, nghĩa là những điều răn cấm không được làm. Những điều răn cấm không được làm đó là những điều sai quấy, trái ngược với tự nhiêntrái với đạo đức.  Vi phạm giới luậtảnh hưởng ngoài thân là làm rối loạn trật tự cộng đồng, đoàn thể. Hậu quả bên trong là tâm không được an ổn bởi những lo âu phiền não vì những hành vi xấu ác mà mình đã gây ra. Giới luật trong nhà Phật không phải chỉ là luật lệ ngăn cấm, mà nên hiểu giới luật như là phép rèn luyện, không sai phạm một lĩnh vực nào là được tự do ở lĩnh vực đó. Cho nên phát triển giới hay giữ giới là có những ý nghĩhành vi xây dựngđồng nghĩa với những việc làm thiện lành, đạo đức, lợi mình, lợi người.

Giới Vô Lậu Học là môn học nhắm vào kỷ luật bản thân hành giả, bằng cách rèn luyện tuân thủ những giới luật do Đức Phật chế tác để phòng ngừa tội lỗi, tránh những hành động trái pháp, kiềm hãm dục vọng (tham, sân, si), hướng đến việc hành trì tu tập với mục đích tiến dần đến quả vị giác ngộ.

            Trong nhà Phật, thời gian 12 năm đầu kể từ khi Đức Phật thành lập Giáo đoànđời sống Tăng già hoàn toàn thanh tịnhchư Tăng luôn sống trong lời Phật dạy “Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành; Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”, nghĩa là hằng ngày luôn suy nghĩ những điều thiện, nói những lời lành, làm những việc lành, ngăn chặn những ý niệm xấu ác, ngăn chặn những lời nói hung dữ, không làm những hành động hại người hại vật.  Nói chung là tu tập giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý luôn được thanh tịnhtrong sáng. Về sau, trong Tăng đoàn xuất hiện nhiều hiện tượng vi phạm đời sống phạm hạnh, nên Đức Phật thiết lập Giới bổn, nhằm mục đích xây dựng Tăng già hưng thịnh, Chánh pháp trường tồn. Khi lập thành giới, Đức Phật nêu ra mười lợi ích để cho thấy tầm quan trọng của các học giới như sau: (*)

1. Giúp Tăng chúng được cực thịnh.

2.  Giúp Tăng chúng được an ổn .

3. Giúp điều phục người ương ngạnhcứng đầu.

4. Giúp các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn

5. Giúp chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại.

6.  Giúp chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai.

7. Giúp đem lại tịnh tín cho những người không tin.

8. Giúp tăng trưởng tịnh tín cho những người đã có lòng tin.

9. Giúp diệu pháp (Chánh pháp) được tồn tại.

        10.  Giúp giới luật được chấp nhận.

Tùy theo căn cơ chúng sanh và tùy thuộc sự phát tâm thọ lãnh giới pháp của từng người, mà Đức Phật thiết lập khác nhau.

- Giới tại gia: Phật tử tại gia như Cận sự namCận sự nữ thọ lãnh ngũ giớiThập thiện giới, Bát quan trai giới, Bồ-tát giới.

- Giới xuất gia: Dành cho hàng xuất gia. Có 5 hội chúng: Sa-di và Sa-di-ni thọ trì 10 giới và 22 hay 24 oai nghi. Thức-xoa-ma-na giữ 4 giới căn bản, 6 học pháp, 292 hành pháp. Tỳ-kheo thọ 250 giới. Tỳ-kheo-ni thọ 348 giới. Còn giới Bồ-tát, cả Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia đều có thể lãnh thọ gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, gọi là thông giới.

Giới trong Giới-bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, gốc từ văn Pãli là Patimokkha,  văn Sanskrit là Pràtimoksa,  có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ Xứ giải thoát và Tùy thuận giải thoát.

Biệt giải thoát là giữ giới phần nào sẽ được giải thoát phần đó. Tùy thuận giải thoát là giải thoát tùy theo pháp hành trì của hành giả đưa đến quả hữu vi hay vô vi.

Mặt khác giới được chia thành Thông giới và Biệt giới. Thông giới là giới Phật tử tại gia hay xuất gia đều được thọ lãnh. Biệt giới chỉ có tự thân nhận thọ, khi hình tướng mất thì giới cũng mất. Khi nói đến Bồ tát giới tức đề cập tới Tam-tụ-tịnh giới gồm 3 nhóm như sau:

Nhiếp luật nghi giới (Biệt giải thoát luật nghi): Gồm các giới của tại gia và xuất gia. Đó là ngăn cấm các điều ác, phát khởi các điều lành.

Nhiếp thiện pháp giới: Là người chuyên tâm hành trì các việc thiện, xem việc thực thi các thiện pháp là hình thức hành trì giới.

– Nhiêu ích hữu tình giới:  Lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh là việc trì giới.

Cụ túc giới (đại giới) là biệt giới chỉ dành riêng Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni. Giới Tỳ-kheo về phần rộng thì vô lượng, phần trung thì ba ngàn oai nghi, phần lược thì 250 giới. Tỳ-kheo-ni cũng thế, chỉ khác phần lược là 348 giới.

   Tóm lạihành giả tại gia hay xuất gia đều có bổn phận học hỏi thông suốt những giới luật và giữ giới mình đã thọ lãnh bằng hai cách:

Chỉ trì: Không làm những điều ác mà trong giới kinh cấm không cho làm.

-Tác trì: Nên làm những điều thiện mà trong giới kinh ấn định phải làm.

Về vấn đề vi phạm giới: Một người bị cho là phạm giới, khi người ấy hội đủ ba điều kiện. (1) Cố ý vi phạm. (2) Chuẩn bị để phạm. (3) Vi phạm cụ thể bằng hành động. Trong ba điều kiện bị buộc tội vi phạm có hai điều thuộc về phần tác ý của tâm. Cho nên ngoài việc giữ giới tướng (do Đức Phật chế tác) thọ lãnhvấn đề đặt nặng là giữ giới thể, tức là tu tập giữ ý thức được thanh tịnh, rời xa các ác phápbất thiện pháp, buông bỏ tham áisân hận và chấp thủ… thì cuộc sống được an lạc hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. 

 

III. ĐỊNH VÔ LẬU HỌC

Định tiếng Pali là Samàdhi. Người Trung Hoa dịch là “Tam muội”. Định mang nhiều ý nghĩa như: Tập trung (concentration); làm cho vững chắc, không dao động (make firm), sự tĩnh lặng (tranquillity); sự yên lặng (calmness), trạng thái tập trung sâu (a deep concentration state). (**)

Trong Trung Bộ Kinh 1, có hai định nghĩa về Định.

Bài kinh số 30: Định là “Nhất tâm” (P: Cittass’ ekaggatã: mental one-pointedness) cũng có nghĩa là “Nhất niệm” (một niệm). Đây là trạng thái tâm đồng nhất với đối tượng, nơi đó không có Ý thức hiện hữu, mà chỉ có “đơn niệm biết” (a single thought of awareness). Nghĩa là tâm hoàn toàn yên lặng không dao động (wavering) bởi các đối tượng ngoài giác quan.

Bài kinh số 36: Định được xem là “trạng thái tâm thuần nhất” (P: Cetaso ekodi: unity of the mind). Đây là trạng thái tĩnh lặng của tâm ( a state of mental tranquillity) hay trạng thái không hai của Ý thức (A nondualistic state of consciousness). Trong đó nội tâm thiền gia không còn Tầm Tứ, là trạng thái tâm không còn chú ý (tầm) và bắt dính (tứ) theo đối tượng.

Định nói cho đủ là Thiền Định (Samàdhi Bhavanà). Thiền Định là phương pháp thực tập để chuyển đổi quán tính dao động của Vọng tâm sang quán tính yên lặng sáng suốt không lời gọi là Chân tâm. Khi tâm hoàn toàn định tĩnh, yên lặng vững chắc mà vẫn có nhận thức biết không lời thì gọi là Định hay Chánh ĐịnhChánh Định là chi thứ tám trong Bát Chánh Đạo tương đương với tầng Định cao nhất trong bốn tầng Định mà Đức Phật đã trải nghiệm và thành đạo.

 Định Vô Lậu Học là môn học về thiền định. Là phương pháp thực tập  tâm chuyên chú vào một đối tượng, quán sát đối tượng ấy để phát sinh ra tuệ. Đối tượng để tu tập Thiền Định thì được gọi là đề mục. Có nhiều đề mục để thực tậpTu tập Thiền thì có hai loại: Thiền Định, giúp tâm vắng lặngcô lập lậu hoặc và Thiền Quán là quán sát đề mục với cái biết trống rỗng như thật, nhằm phát huy trí tuệ.

Thực tập thiền Định có hai bước: Bước một là Chánh niệm, bước hai là Chánh địnhChánh niệm tiếng Sanskrit là “samyaksmirti”, tiếng Pãli là “samasati”. Chánh niệm có nghĩa là nhận biết đúng đắnrõ ràng như thật về một đối tượng nào đó. Cũng có thể hiểu người có Chánh niệm là người làm chủ được tâm mình trong bất cứ lúc nào. Nói cách khác trong mỗi hành động, thiền giả đều có niệm biết rõ ràng (tỉnh thức) về việc mình đang làm như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, mặc quần áo, nói năng, nhìn, ngó. Ngay cả lúc im lặng, nhắm mắt, cũng biết rõ những gì xảy ra quanh mình hay trong thân tâm mà không dính mắc, chạy theo. Đó gọi là Chánh niệm tỉnh giácTóm lại Chánh niệm là thấy biết mọi thứ đang diễn ra như chúng đang là. 

Muốn thực hành Thiền Chánh Niệm (để đến Chánh Định) trước hết người tập phải xử dụng Trí Năng tỉnh ngộ để tu tậpTrí Năng tỉnh ngộ giữ vai trò chú ý, chú tâm vào một đề mục thiền để cột tâm lại không cho tâm tán loạn.

Thí dụ như tu tập đề mục Anapànasati Samàdhi (Định Niệm Hít Vào Thở Ra). Ban đầu hành giả chú ý nói ra lời “Tôi biết tôi thở vào” khi hít không khí vào. “Tôi biết tôi thở ra” khi thở không khí ra. Đây là hành giả xử dụng “đơn niệm biết có lời”, nghĩa biết mình đang nói ra lời, nhưng chỉ với một nội dung thở vào thở ra mà thôi. Kết quả không có niệm nào khác chen vào, tâm được yên lặng, kinh nghiệm Định nhưng không vững chắcThuật ngữ gọi đây là trạng thái của Thiền Chỉ (Samatha Bhavanà). Giai đoạn này là giai đoạn tầm (Vitakka/sự nói thầm trong đầu) tắt Tứ (Vicàra/đối thoại thầm lặng hay lầm bầm trong đầu không ngừng). Tầm là do thiền gia tự nói ra có công năng không để những vọng tưởng nói thầm qua lại từ trong ký ức khởi lên là Tứ.

 Bước kế tiếp là giữ Chánh Niệm về sự thở vào thở ra, bằng cách thầm nhận biết không lời về hơi thở vào ra đó. Hơi thở dài (thầm) biết hơi thở dài. Hơi thở ngắn (thầm) biết hơi thở ngắn. Hơi thở nặng nề (thầm) biết hơi thở nặng nề. Kết quả ngôn hành (Tầm Tứ) yên lặng, hành giả kinh nghiệm Định Không Tầm Không Tứ.

Bước thứ Ba, Tỉnh thức biết không lời rõ ràng đầy đủ về những gì đang xảy ra trên thân, trong thân (thân, thọ, tâm, pháp) hay những gì xảy ra xung quanh (ngoại thân) trong hiện tại bây giờ và ở đây, mà tâm hoàn toàn yên lặng không dính mắc. Tầng định này gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Trong giai đoạn này trạng thái tỉnh thức biết không lời mà thiền giả đã đạt được trong bước thứ Ba từ từ trở thành Nhận thức biết không lời. Tâm thức thiền giả rơi vào trạng thái bất động. Chút dính mắc trong tâm với trạng thái an lạc cũng biến mất (xả). Nhận thức không lời càng lúc càng tỏ rạng. Hành giả chìm sâu vào định không đối tượng. Hơi thở rơi vào trạng thái yên lặng từng chập, gọi là tịnh tức. Tầng thiền này được gọi là “Định Bất Động” vì cả ba hành: Ngôn hành, Ý hành và Thân hành hoàn toàn yên lặng. (***)

 Bấy giờ tâm của thiền gia sáng suốt như tấm gương. Trong kinh mô tả trạng thái tâm này: “định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm , không phiền nãonhu nhuyến, ngoài lý luận, dễ sử dụngvững chắc, bình tĩnh…” Đây là cơ hội tốt nhất chuyển sang thiền Quán, nghĩa là quán sát đề mục để phát sinh Tuệ. Tuệ này là thấy rõ thực tướng của đề mụcnhận ra đặc tính vô thường, khổ, vô ngã cùng sự sinh diệt của đối tượng để không còn dính mắc hay chấp trước với những gì xảy ra trên đời.

 Theo Phật giáo Nguyên Thủyhành trì thiền Quán (Vipassanà/Thiền Minh sát) để phát huy trí tuệ có 4 đề mục. Thân, Thọ, Tâm, Pháp.  - Thân hành xứ: Lấy thân thể làm đề mục thiền địnhQuán thân nơi thân. - Thọ hành xứ: Lấy thọ làm đề mục thiền định. Quán thọ nơi thọ. -Tâm hành xứ: Lấy tâm làm đề mục thiền địnhQuán tâm nơi tâm. - Pháp hành xứ: Lấy pháp làm đề mục thiền địnhQuán pháp nơi pháp.

Theo Phật giáo Phát triển, thực tập thiền định là dùng trí Bát Nhã quán chiếu các pháp nhưnăm uẩn đều không (ngũ uẩn giai không); nhân vô ngãpháp vô ngã … Thiền gia thấu đạt Tánh Khôngliễu tri các pháp, tâm an trú trong Định, trí tuệ Bát Nhã bừng sáng. Phương pháp tu thiền Định này là dựa vào kinh Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên GiácHoa Nghiêm v.v…

“Tối thượng thừa thiền” thuộc về Thiền Tông, là phương pháp dạy thiền của Tổ Bồ Đề Đạt Ma dành cho các bậc thượng căn, thượng trí qua chủ trương: “bất lập văn tựgiáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâmkiến tánh thành Phật”. Người đại trí chỉ cần nghe một câu nói, một bài kệ hoặc cử chỉ thích hợp là khai thị được Tánh giác của họ, làm cho họ ngộ đạo tức khắc, không cần phải giảng giải nói năng dài dòng.

Tóm lại, Định Vô Lâu Học là môn thiền Định cần thiết và quan trọng vì trong trạng thái Định, lậu hoặckiết sửtùy miên, tham, sân, si…  bị cô lậpBa nghiệp thân khẩu ý  được thanh tịnh không tạo nghiệp mới,  giúp cho thân tâm thiền giả được giải thoát khỏi phiền não khổ đau.

Tuy nhiên, trong đạo PhậtĐịnh không phải là mục tiêu chính, mà chỉ là cái cầu để bước tới Tuệ. Nhưng muốn Tuệ phát sáng, thiền gia nhất định phải thông qua Định để phát triển năng lực vững chắc, hầu khai triển tiềm năng giác ngộ, tức Phật tánh. Như vậy Định một mặt là phương tiện cơ bản để đạt được Tuệ tức giác ngô, mặt khác Định là tác nhân đào thải tận gốc tập khí hay lậu hoặc đưa đến giải thoát.

 

IV. TUỆ VÔ LẬU HỌC

            Tuệ Vô Lậu Học hay Huệ Vô Lậu Học là môn học thứ ba trong Tam Vô Lậu Học. Danh từ Tuệ thường đi chung với từ Trí gọi là Trí Tuệ hay Trí HuệTrí Huệ trong giáo lý nhà Phật còn gọi là Bát NhãBát Nhã là Hán ngữ dịch từ tiếng Panna (Pãli) hay Prajna (Sanskrit) có nghĩa là sự phát sáng của trí hiểu biết sau khi tẩy sạch dục lậuhữu lậu và vô minh lậu.

            Trí tuệ khác với trí thứcTrí thức hay kiến thức là trí hiểu biết của người thế gian. Người trí thức được xem là người thông minh vì có sự hiểu biết rộng rãi. Những sự hiểu biết đó đến từ bên ngoài được tích lũy từ gia đình, trường lớp, rút tỉa từ kinh nghiệm thành công hay thất bại trong đời sống. Cái biết này hay nhận thức này, được xem là cái biết hay nhận thức của thế gian hữu hạn thuộc về tục đế .

            Trí tuệ vô lậu trong đạo Phật là trí nhận thức biết, phát xuất từ bên trong tâm của các bậc thiền gia tu tập ba môn Giới-Định-Tuệ mới có. Tu giới để chấm dứt ác hạnh hiện hànhTu tập Thiền Định để cô lập tất cả những chủng tử tùy miên tham sân si gọi chung là lậu hoặc ẩn tàng trong tâm. Những chủng tử này sẽ dễ dàng trồi lên khi tâm hành giả xao lãng thất niệm. Chỉ có Tuệ phát sinh trong Định mới có thể diệt những chủng tử phiền não vô minh này. Khi vô minh phiền não bị đoạn diệt không còn dư tàn thì mới giải thoát vĩnh viễn khổ đau, chứng được Niết-Bàn.

            Trí tuệ Bát Nhã có hai cấp bậc:  

1) Thấp là Trí : Tiếng Pãli là Nàna , tiếng Sanskrit là Jnàna. Tiếng Anh là Insight. Trí này là trí hiểu biết về Phật Pháp do học hỏi từ các bậc Thầy hay từ trong tam tạng kinh điển. Sự hiểu biết này, tuy có mùi vị đạo nhưng vẫn còn thuộc về kiến thức Phật học, bởi do học từ kiến thức của người khác.

Thí dụChúng ta nghe các bậc Thầy giảng về Chân lý Tứ Diệu ĐếChúng ta hiểu rõ về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nên nói chúng ta đã đạt được“Khổ trí, Tập tríDiệt trí, Đạo trí” hay chúng ta đã “tuệ tri về Khổ đếtuệ tri về Tập đếtuệ tri về Diệt đếtuệ tri về Đạo đế”.

Tuệ tri hay tuệ trí này không phải chúng ta tự biết mà do chúng ta học từ người khác, nên vẫn bị xem là tục đế. Nhưng vì chuyên học và ghi nhận những Nhận thức của Đức Phật chứng ngộ nên tạm xếp là “Tục đế Bát Nhã” để phân biệt với kiến thức thế gian là tục đế.  

2) Cao hơn Trí, là Tuệ (Bát Nhã): Panna (P); Prajna (Skt), tiếng Anh là wisdom, là trí huệ tự phát do công phu tu tập thể nhập thiền ĐịnhThể nhập có nghĩa là qua dụng công thực hành kết quả “Ta và đối tượng là một” (nhất tâm). Nhưng muốn đạt được Huệ phải đi từ Trí, nghĩa là phải học hỏi từ bậc Thầy rồi thực hành thiền Định để kinh nghiệm Thân chứngTâm chứng và Trí chứngTrí tuệ này là trí tuệ siêu vượt (transcendental wisdom). Có nhiều tên gọi khác như: Huệ Bát Nhã, Huệ Tự Phát hay Phật tánh hoặc tiềm năng giác ngộChân Như v.v… được xếp là “Chân đế Bát Nhã”.

 

V. TẠM KẾT

            Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Đức Phật có nhiều phương thức, nhiều pháp môn hướng dẫn đệ tử tu tập để đạt quả vị giải thoát tối hậu, nhưng với pháp môn nào người tu tập cũng phải thực hành nhuần nhuyễn Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Vì Tam Vô Lậu Học có công năng đưa hành giả qua bờ giác ngộ thoát khỏi vòng tục lụy luân hồi sinh tử./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Chân Tâm thiền thất; July 26-2022)

Tài liệu tham khảo:

(*) Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr.73)

(**) “Tương Ưng Giới Định Huệ và Bát Chánh Đạo” (Sách: “Trên Đường Về Nhà” tr.101-122). Tác giả Thích Nữ Hằng Như. Published by Ananda Viet Foundation (2020). Amazon tổng phát hành.

(***) Theo giáo trình giảng dạy của cố Hòa Thượng Thích Thông Triệt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12655)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14549)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38578)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14685)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14688)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14109)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14992)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16621)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29996)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16273)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15591)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14946)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14939)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17925)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15635)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38763)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26801)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39726)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50873)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38809)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35141)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18362)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16526)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42485)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39341)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35679)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17515)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46601)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17200)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28527)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19025)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17644)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17144)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17606)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16572)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16965)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30950)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16976)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18555)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18519)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17422)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18196)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17116)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23562)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17059)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17505)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17739)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17115)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15788)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18095)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17459)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17276)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29610)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27829)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18209)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16158)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15405)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23113)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14885)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55216)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant