Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Huyễn Trong Trung Luận

27 Tháng Tám 202216:24(Xem: 1705)
Như Huyễn Trong Trung Luận

Như Huyễn Trong Trung Luận


Nguyễn Thế Đăng


da
 

Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh KhôngTánh Không là vô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.

Trong Trung Luận của Bồ tát Long Thọ (Nagarjuna), pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, có ba đoạn nói về như huyễn.

 

Chương Quán Ba Tướng thứ 7 nói:

17. Nếu pháp (do) các duyên sanh

Tức là tánh tịch diệt

Nên đang sanh, sự sanh

Cả hai đều tịch diệt.

Tánh tịch diệt là tánh Không. Nếu pháp là do các duyên sanh, nó là tánh Không. Cho nên cả hai sự đang sanh và sự sanh đều là tánh Không.

Sự sanh là tánh Không nên tất cả cả pháp không có sanh không có diệt:

30. Như tất cả các pháp

Tướng sanh chẳng thể đắc

Vì không có tướng sanh

Tức cũng không (có) tướng diệt.

Vì tất cả các pháp không thể có tướng sanh, nên chúng cũng không có diệt.

34. Sanh, trụ, diệt, chẳng thành

Nên không có hữu vi

Pháp hữu vi không có

Sao có được vô vi?

Các pháp hữu vi và vô vi đều không có sanh, trụ, diệt, nghĩa là chẳng thể đắc, đều là tánh Không. Và vì là tánh Không nên như huyễn như mộng:

35. Như huyễn cũng như mộng

Như thành Càn thát bà

Nói rằng sanh trụ diệt

Tướng nó cũng như vậy.

Sanh, trụ, diệt là do vô minh phân biệt hư vọng. Nên phải thấy sanh, trụ, diệt của các pháp là không thậtnhư huyễn như mộng, như thành Càn thát bà không do đâu, không nguyên nhân gì mà hiện giữa không trung.

 

Chương Quán Điên Đảo thứ 23 nói:

1. Từ nhớ tưởng phân biệt

Sanh ra tham, sân, si

Điên đảo tịnh, bất tịnh

Đều từ các duyên sanh.

2. Nếu do tịnh, bất tịnh

Điên đảo sanh ba độc

Ba độc không tự tánh

Nên phiền não không thật.

3. Ngã pháp đã không có

Sự ấy rốt chẳng thành

Không ngã, các phiền não

Có, không cũng chẳng thành.

6. Điên đảo tịnh, bất tịnh

Vốn là vô tự tánh

Làm sao hai thứ ấy

Sanh được các phiền não.

Điên đảo là sự nhớ tưởng phân biệt thực tại thành tịnh, bất tịnh, từ đó ba độc tham sân si sanh ra. Phiền não chính là ba độc tham sân si. Nhưng một độc như tham thì vô tự tánh, vì tham duyên sanh từ một cái ngã vô tự tánh và một đối tượng (pháp) vô tự tánh. Thế nên phiền não ba độc không thật có. Các phiền não ba độc, dù có dù không, đều chẳng thành, không thật có, vô tự tánhnhư huyễn.

Điên đảo về tịnh bất tịnh, với sự quán sát tường tận, thì thấy ra nó dựa vào các thứ vô tự tánh, cho nên nó không có căn cứ, vô tự tánhhư vọng như mộng như huyễn.

Tiếp theo là sự quán sát cái căn bản từ đó ba độc sanh ra:

7. Sắc thanh hương vị xúc

Và pháp là sáu thứ

Sáu thứ ấy như vậy 

Là căn bản ba độc.

8. Sắc thanh hương vị xúc

Và pháp, thể sáu thứ

Đều Không, như sóng nắng như mộng

Như thành Càn thát bà.

9. Trong sáu thứ như vậy

Đâu có tịnh, bất tịnh

Giống như người huyễn hóa

Cũng như bóng trong gương.

18. Ngay nơi khi điên đảo

Điên đảo thật chẳng sanh

Ông hãy tự quán sát

Điên đảo sanh nơi ai?

Sắc thanh hương vị xúc pháp là những cơ sở cho ba độc nảy sanh. Chúng là những đối tượng để điên đảo phân biệt vận hành, phát triển.

Nhưng quan sát kỹ lưỡng, sáu thứ ấy không có thật một cách khách quan, chưa nói đến kinh nghiệm chủ quan của mỗi người về sáu thứ ấy. Chúng không có thật một cách khách quan, vì chúng là duyên sanhvô tự tánh.

Sáu thứ ấy đã duyên sanh vô tự tánh thì làm gì có sự tịnh và bất tịnh của chúng. Cho chúng là tịnh, là bất tịnh chỉ là điên đảo phân biệt hư vọng. Sáu thứ ấy đều vô tự tánh, đều Không, như sóng nắng mà tưởng là nước, như mộng đêm qua, như thành Càn thát bà vọng thấy giữa hư không.

Chúng như người huyễn hóa, do nhà huyễn thuật biến hóa ra. Nhà huyễn thuật biến hóa ra ấy là tâm, như tâm biến hóa thành câu chuyện một giấc mộng. Chúng như bóng trong gương, có thấy nhưng không thể cầm nắm, xúc chạm.

Sáu thứ ấy và phiền nãođiên đảo vọng tưởng tạo thành cuộc đời chúng taQuán sát thật tướng của chúng như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như người huyễn hóa, như bóng trong gương thì chúng ta được giải thoátChúng ta vẫn sống ở đời này, nhưng giải thoát là giải thoát khỏi ba độcphân biệt điên đảo, những vọng tưởng do chính mình sanh ra.

Giờ đây, ngay khi đang điên đảo, hãy tự quan sát, “Điên đảo sanh nơi ai?” Quan sát được “Điên đảo sanh nơi ai?” thì “điên đảo chẳng sanh”. Và quán sát càng sâu, càng tận gốc rễ thì càng giải thoát.

 

Trung Luận gồm 27 chương quán sát tánh Không của 27 đề mụcQuán sát tánh Không của các đề mục khiến chúng ta loại bỏ vọng tưởng điên đảo, tịnh hóa tâm thức phân biệt hư vọng, do đó giải thoát khỏi sanh tử luân hồi hư vọng. Thế nên trí huệ thấy biết tánh Không là Trí huệ ba la mật, cái cuối cùng trong Sáu ba la mật.

Ở đây chúng ta tiếp tục phần nói về như huyễn của Trung Luận.

Chương Quán Nghiệp thứ 17 nói:

27. Các phiền não và nghiệp

Là nhân duyên sanh thân

Phiền não, các nghiệp Không

Sao nói có các thân.

28. Bị vô minh che lấp

Dây khát ái cột trói

Nhưng với chính người làm

Chẳng tức cũng chẳng khác.

29. Nghiệp chẳng từ duyên sanh

Chẳng từ phi duyên sanh

Thế nên không thật có

Tác nhân khởi nghiệp ấy.

30. Không nghiệp, không tác giả

Sao có nghiệp sanh quả

Nếu không có quả báo

Đâu có người thọ quả.

Các phiền não và các nghiệp là tác nhân sanh ra thân. Nhưng phiền não và nghiệp lại do duyên sanhquán sát kỹ thì chẳng có cái gì thực sự kết hợp với cái gì, nên là tánh Khôngvô tự tánh.

Vô minh biểu lộ thành những niệm tưởng lăng xăng che lấp thực tại. Nhưng một niệm tưởng khởi lên từ đâu, từ căn cứ, cơ sở nào? Quán sát triệt đểchúng ta thấy một niệm tưởng khởi sanh không từ đâu cả, không căn cứ, cơ sở. Một niệm tưởng như một đám mây giữa bầu trời, thoạt có thoạt không, sanh không từ đâu và biến mất không về đâu.

Vô minh và khát ái là vô tự tánh, là tánh Không. Người làm, tác giả làm ra nghiệp cũng vô tự tánh, cũng là tánh KhôngTác giả và nghiệp đều vô tự tánh, nên tác giả chẳng phải “tức là” nghiệp, cũng chẳng phải “khác” với nghiệp. Nói “tức là” thì chẳng đúng thật, mà nói “chẳng khác” thì cũng chẳng đúng thật. “Chẳng tức cũng chẳng khác”, đó là tánh Khôngkhông thật có, như huyễn như mộng.

“Nghiệp chẳng từ duyên sanh”: hoa đốm giữa trời chẳng từ duyên nào cả. “Chẳng từ phi duyên sanh”: nếu chẳng từ chẳng phải duyên, không có duyên nào cả thì tại sao lại thấy hoa đốm? Hoa đốm là vọng thấy, như huyễn vậy.

Nghiệp thấy hoa đốm đã không thật có, thì tác nhân hay bệnh thấy hoa đốm cũng không thật có. Nghiệp đã không thật có, làm sao tác nhân khởi ra nghiệp không thật có ấy lại thật có?

Nghiệp không thật có, tác giả cũng không thật có, bởi vì cả hai đều là chân lý tương đốiquy ước (thế đế) trong chân lý tuyệt đối và tối hậu là tánh Không. Nghiệp không thật có, tác giả cũng không thật có, cả hai đều không có tự tánh, thì làm sao sanh ra quả báo thật có và có tự tánh được?

Như thế trí huệ quán chiếu tánh Không khiến nghiệp và quả báo được tịnh hóa khi chúng được thấy là như huyễn như mộng.

 

31. Như Thế Tôn thần thông

Làm ra người biến hóa

Người biến hóa như vậy

Lại biến tạo hóa nhân.

32. Người biến hóa ban đầu

Được gọi là tác giả

Người biến hóa tạo sau

Đó được gọi là nghiệp.

33. Các phiền não và nghiệp

Tác giả và quả báo

Đều như huyễn như mộng

Như sóng nắng như vang.

Như Phật thần thông tạo ra một người biến hóa, người do biến hóa này lại tạo ra người biến hóa khác, cả hai đều là sự biến hóakhông thậtTác giả là người do biến hóaviệc làm của người biến hóa ấy được gọi là nghiệp, nhưng việc làm, nghiệp của người biến hóa thì cũng là việc biến hóa.

Thế nên, các phiền não, các nghiệp, tác giả và quả báo đều là biến hóanhư huyễn như mộng, như sóng nắng, như tiếng vang. Chúng xuất hiện, nhưng vô tự tánh nên không có thật, không có hiệu lực, như mộng như huyễn, chỉ làm khổ người không biết, không thức tỉnh.

 

Trí huệ quán chiếu tánh Không vô tự tánh thấy tất cả sanh tử đều như huyễn như mộng. Xem sanh tử là có thật, những kinh nghiệm của con người ở trong đó là có thật, đó là bị trói buộc. Bị sanh tử trói buộc, lôi kéo đi bởi các phiền não rồi tạo các nghiệp bởi vì mê tín vào sự có tự tánh, có thật của những kinh nghiệm tạo thành sanh tử.

Thế nên trí huệ thấy sự vô tự tánhnhư huyễn như mộng tịnh hóa sự mê lầm của con người, đưa họ đến cái thấy đúng, chân thậtGiải thoát chính là cái thấy đúng, chân thật này. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15520)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13211)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19370)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24636)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15750)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37840)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13489)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13112)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17189)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13208)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17394)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21650)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13227)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14419)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12825)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13670)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28651)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23413)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34397)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28891)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32200)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11331)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12011)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26311)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17396)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14535)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34510)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13127)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12289)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13424)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40529)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26960)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14471)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13266)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13467)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12543)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13161)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12322)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11803)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12582)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17677)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12221)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12764)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18454)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14306)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13010)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11332)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12162)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13474)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10851)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11086)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10307)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28933)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25305)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26868)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25783)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18683)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23050)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34565)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32194)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant