Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thời Gian

27 Tháng Chín 202208:55(Xem: 1739)
Thời Gian

THỜI GIAN

Nguyễn Thế Đăng

Trí Tuệ Và Phương Tiện Hợp Nhất

1/ Tướng của thời gian 

Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người. Và liệu có cách nào để thoát khỏi thời gian của đời người đang trôi về cái chết? Chính vì câu hỏi này mà có con đường thực hành của Phật giáo để thực chứng lời nói của Đức Phật:

Cửa Vô sanh Bất diệt đã rộng mở cho chúng sanh
Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng”.

Chương Quán Thời Gian trong Trung Luận của Bồ tát Long Thọ chỉ có 6 câu bắt đầu bằng:

1. Nếu nhân thời quá khứ
Mà có hiện tại và vị lai
Thì hiện tại và vị lai
Phải có trong thời quá khứ.

Nếu nhân có thời quá khứ nên có thời hiện tại và vị lai, thì thời hiện tại và vị lai đã phải có trong thời quá khứ. Thời hiện tại vị lai đã có trong thời quá khứ thì đó là thời quá khứ, đâu cần phải gọi là hiện tại và vị lai? Thời hiện tại phải dựa vào thời quá khứ mới có, mới có thể đặt tên, và thời quá khứ cũng phải dựa vào thời hiện tại để có, để có thể đặt tên. Sự phân biệt giữa thời hiện tại và thời quá khứ phải nương dựa vào nhau. Dựa vào nhau mới hiện hữu, mới có tên nên không có hiện hữu tự mình, nội tại; hiện hữu ấy là duyên sanh, nương nhau mà có, không có tự tánhvô tự tánhVô tự tánh tức là tánh Không, mà giả danh là một mặt của tánh Không.

Nhưng đây không phải là một quá trình lý luận biện chứng, vì có lý luận biện chứng cao cấp đến đâu cũng không thể vượt khỏi ý thức. Mà ý thức thì luôn luôn bị vây bọc trong bốn câu (tứ cú): có, không, vừa có vừa không, không có cũng không không. Mỗi chương của Trung Luận đều nói về Quán (pariksa), thế nên mỗi câu cần đặt dưới ánh sáng của thiền định (chỉ) và thiền quán (quán), như thế thì mới có thể vượt khỏi ý thức để nghĩa của tánh Không bật ra, hiển hiện.

Cái gọi là hiện tại là cái gì?

2. Nếu trong thời quá khứ
Không có hiện tại vị lai
Thì tại sao nói hiện tại vị lai
Nhân quá khứ mà có.

Hiện tại không có trong thời quá khứ, cũng không nhân vào, không dựa vào thời quá khứTương tựhiện tại không có trong thời vị lai và cũng không nhân vào, không dựa vào thời vị laiHiện tại không trụ ở thời quá khứ, không trụ ở thời vị laiHiện tại không trụ ở đâu cả, hiện tại là không chỗ trụ, nên hiện tại là không có, là tánh Không

3. Chẳng nhân thời quá khứ
Ắt không có thời vị lai
Cũng không có thời hiện tại
Thế nên không có thời hiện tạivị lai.

Một sự vật phải nhân vào, nương vào ít nhất một sự vật khác để hiện hữu. Thời hiện tại phải nương vào thời quá khứ để hiện hữu. Nhưng thời hiện tại không nhân vào thời quá khứ thì thời hiện tại cũng không hiện hữu.

Thời hiện tại và vị lai không nhân thời quá khứ mà có, hai thời ấy không nhân vào đâu cả, hai thời ấy không có chỗ trụ, nên không có ở đâu cả (vô sở hữu).

4. Thế nên do vì nghĩa ấy
Mà biết được hai thời kia
Cao, giữa, thấp, một, khác
Các pháp ấy đều không có.

Do nghĩa muốn có thời hiện tại và vị lai thì hai thời này phải nhân vào thời quá khứ, nhưng sự nhân vào thời quá khứ này đã bị bác bỏ, nên không có thời hiện tại và vị lai.

Tóm lại sự phân chiaphân biệt ra ba thời là không đúng thật, ba thời chỉ là “giả danh” (chữ của ngài Long Thọ). Sở dĩ như vậy vì người bình thường chỉ sống trong thức phân biệt, cái này cao cái này thấp, cái này trước cái kia sau, cái này khác cái kia… Thêm vào sự phân biệt của ý thức lại có thêm mùi vị của cảm xúcvui buồn, sướng khổ, vinh nhục…, rồi làm mạnh thêm sự phân biệt chủ quan ấy bằng những danh từ, động từ, tính từ… Tất cả tạo thành cuộc đời mà thường được gọi là sanh tử, một cuộc đời sanh tử nếu xét cho cùng chỉ có trong sự phân biệt không thật.

Những lý luận biện chứng của Trung Luận để người ta thấy ra sự thật: những sự vật và sự việc đều nương vào nhau mà có, không cái nào độc lậphiện hữu tự mình và do mình. Chúng đều nương vào tất cả những cái khác mà có. Chẳng hạn thấy một sự vật trước mắt phải có ít nhất là con mắt, ánh sáng, đối tượng để thấy, ý thức biết phân biệt. Một sự vật phải nương vào mọi cái khác để hiện hữu, nó không có hiện hữu riêng, không có tự tánh để tự hiện hữu.

Đã thế nó chẳng có thể nhân vào, nương vào những cái khác, vì những cái khác cũng là không có tự tánhThiền quán sâu xa hơn nữa, chúng ta thấy trực tiếp tánh Không mà theo Kinh Đại Bát Nhã là không chỗ có (vô sở hữu), chẳng thể cầm nắm được (bất khả đắc), không có chỗ trụ ở (vô sở trụ).

Với chánh quán vô phân biệt như vậy, chúng ta sẽ đạt đến trí huệ thấy như thật, tức là thấy tánh Không của tất cả mọi sự. Khi ấy chúng ta sẽ giải thoát khỏi mọi mê mộng tạo ra sanh tử phân biệt không thật.

5. Thời yên trụ chẳng thể đắc
Thời đi qua cũng chẳng thể đắc
Nếu thời chẳng thể đắc
Làm sao nói có tướng thời?

Trực tiếp quán sát hình tướng của thời gian chúng ta thấy: không có thời gian yên trụ vì thời gian đi qua trong từng khoảnh khắc. Thời yên trụ chẳng thể đắc, chẳng thể có được.

Nhưng thời đi qua thì đi từ đâu và đi đến đâu khi thời hiện tại và vị lai không có (câu 3) và thời quá khứ không có để mà nhân vào, nương vào (câu 1, 2, 3). Thời đi qua chẳng thể đắc, chẳng thể có được.

Tướng thời gian chỉ là một chân lý quy ướctương đối (thế thế), thế mà lầm cho là chân lý tuyệt đối và tối hậu, đó là sai lầm trầm trọng, gây tai hại cho mình và người.

Thời quá khứhiện tạivị lai là tánh Không, chỉ vì thức phân biệt cao thấp, trước sau, một khác mà tạo thành những thời gian phân mảnh, đó là sanh tử phiền não khổ đau.

Để thoát khỏi thức phân biệt phân mảnh giả tạo này, cần chánh quán thật tướng của mọi sự là tánh Không. Chánh quán ấy nếu thành tựu thì được gọi là Trí huệ Bát nhã.

6. Nhân vật nên có thời
Lìa vật sao có thời
Vật còn không chỗ có (vô sở hữu)
Huống gì có thời gian.

Ngay trong chương Quán Thời này, đã nói là “không có cao, giữa, thấp, một, khác” (câu 4), nghĩa là không có những vật phân mảnh, thế nên không có thời gian phân mảnh thành quá khứhiện tạivị lai.

 

2/ Thật tướng của thời gian.

Khi bác bỏ các tướng phân mảnh của thời gian, đưa chúng về vô tự tánhvô sở hữubất khả đắc, tức là tánh KhôngTrung Luận không nói tánh Không là không có gì cả, là một chủ nghĩa hư vô hoàn toànTrung Luận nói nhiều đến thật tướng của các pháp, Niết bàn, chư Phật. Chẳng hạn, chương XVIII Quán Pháp, câu 7:

7. Thực tướng của các pháp
Tâm hành ngôn ngữ dứt
Không sanh cũng không diệt
Tịch diệt như Niết bàn.

Niết bàn là sự thoát khỏi thời gian phân mảnh của sanh tửNiết bàn là không có thời gian, đây là giải thoát. Vậy tìm kiếm Niết bàn không có thời gian này ở đâu?

10. Chẳng lìa ngoài sanh tử
Mà có riêng Niết bàn
Nghĩa thật tướng như vậy
Sao còn có phân biệt?
Quán Trói - Mở. XVI

‘Thật tướng không có thời gian’ không lìa ngoài thời gian tạo thành sanh tử, bởi vì bản tánh của thời gian là tánh Không, là thật tướng không có thời gian. Bằng sự quán chiếu liên tục tính vô tự tánhvô sở hữu của thời gian, người ta sẽ thấy ra, nhận biết ‘thật tướng không có thời gian’ của thời gian.

Chương XXV Quán Niết bàn nói Niết bàn và sanh tử không phân biệt, không có khác biệt.

19. Niết bàn và thế gian
Không có chút phân biệt
Thế gian và Niết bàn
Cũng không chút phân biệt.
20. Bờ mé thật (thật tế) của Niết bàn
Và bờ mé thật của thế gian
Hai bờ mé như vậy
Không mảy may sai khác.

Như thế Niết bàn ở khắp cả trong sanh tử, trong không gian và thời gian của bất cứ chúng sanh nào, nên cái không có thời gian ở khắp trong mọi thời gian của sanh tử. Cái không phân biệt ở khắp trong mọi phân biệt tạo ra thời gian. Cái không có thời gian và mọi thời gian phân mảnh, cái không phân biệt và mọi phân biệt đều “không mảy may sai khác”. Cái không có thời gian phải được tìm thấy ngay trong thời gian, cái không phân biệt phải được tìm thấy ngay trong mọi phân biệt, khi ta tìm thấy thật tướng tánh Không của chúng. Niết bàn phải được tìm thấy ngay trong sanh tử, vì Niết bàn chính là tánh Không của sanh tử.

Thật tướng của thời gian là một vị tánh Không, một vị không có thời gian, một vị Niết bàn. Hoặc dùng ngôn ngữ của văn hóa Tây phương, một vị “Hiện tại vĩnh cửu”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12654)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14546)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38573)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14683)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14687)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14106)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14991)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16597)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29971)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16252)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15585)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14939)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14937)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17923)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15629)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38752)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26797)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39724)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50869)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38805)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35134)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18358)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16523)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42483)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39335)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35676)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17510)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46597)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17194)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28525)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19023)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17640)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17144)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17603)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16572)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16962)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30943)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16974)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18552)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18519)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17421)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18193)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17115)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23558)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17058)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17496)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17737)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17113)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15788)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18094)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17459)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17274)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29607)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27826)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18205)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16150)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15401)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23110)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14883)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55208)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant