Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về Nguồn

07 Tháng Mười Một 202206:13(Xem: 1544)
Về Nguồn

VỀ NGUỒN


Nguyễn Thế Đăng

Về Nguồn

 

1/ Nguồn

Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc. Rồi người ta bù đắp sự thiếu thốn ấy bằng danh vọng, tiền tài, quyền lực, bằng tình yêu và thậm chí bằng cả những điều xã hội không cho phép như các tệ nạn nhậu nhẹt, ma túy…

Sự thiếu thốn, thất lạc ấy được diễn tả nhiều trong văn chương và triết học: sự nhớ về quê hương hữu thể (Nolstalgie de L’Être). Quê hương Hữu thể ấy văn chương và tôn giáo thường gọi là nguồn. Như Bùi Giáng đặt tên cho tập thơ đầu tiên của mình là Mưa Nguồn, và cả cuộc đời ông là một hành trình trở về quê hương, trở về nguồn.

Tâm tình một nẻo Quê Chung
Đường về Cố Quận muôn trùng ta đi.

Đây là hai câu thơ của Huy Cận, nhưng Bùi Giáng đã viết nhiều lần trong thơ, khiến nhiều người tưởng là của ông, vì thấy cuộc đời ông cũng như thế thật.

Quê hương, gốc nguồn là một điều ám ảnh Bùi Giáng cả đời, và đó là nỗi ám ảnh đã làm nên sự nghiệp thơ ca của ông:

Hỏi quê rằng biển xanh dâu
Hỏi tên rằng mộng ban đầu đã xa.

Chữ “nhớ” được nhắc rất nhiều lần trong thơ ông:

…Ngõ về em có nhớ không
Bóng vang đầu nước hình lồng cuối sân
….
Mùa mây trên tháng năm còn
Ngày vui thứ nhất trái tròn sơ nguyên
Dâu Tần ngả nhánh nghiêng nghiêng
Ôi người cố quận nhìn em phương nào.
(Đi tìm)

Trong bài thơ viết về Đà Lạt, một nơi chốn hiện còn trong cuộc sống mỗi người, ông lại nhớ về một non nước đã mất mát, đã chia biệt không còn ai biết nơi đâu. Bài thơ kết thúc bằng bốn câu:

Non nước ấy chìm đâu em có biết
Dựng bên trời để nhớ để quên đi
Màu nước chảy để dư vang chia biệt
Vọng miên man trường hận thở than gì.        

Với Hàn Mặc Tử, sự thất lạc, mất mát, sự bị bỏ rơi ấy còn khốc liệt hơn:

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
(Những giọt lệ).

Martin Heidegger, một trong vài triết gia quan trọng nhất thế kỷ 20, mà chủ đề của ông là sự bỏ quên hữu thể hay bản tánh (l’oubli de l’Etre, Seinsvergessenheit). Chính vì sự bỏ quên hữu thể này mà con người đang ở trong một thời đại nguy hiểm. Hữu thể hay bản tánh còn được ông nói đến bằng những từ Nguồn gốc (Ursprung), Quê hương (Heimat), cái Thiêng liêng…

Quê hương đích thực, cội nguồn là nơi chốn mà triết học và thơ ca, tiểu thuyết luôn luôn tìm kiếm, bởi vì con người sinh ra đời trong một sự mất cội nguồn.

Nhan đề một cuốn sách của Albert Camus là L'exil et le Royaume được dịch là Lưu đày về Quê nhà (Trần Phong Giao và Vũ Đình Lưu dịch, Giao Điểm 1965). Trong Kinh Thánh và Kinh Pháp Hoa đều có câu chuyện chàng thanh niên khốn khổ quên mất đường về quê hương và khó nhọc tìm về.

2/ Nguồn như là đích đến của con đường Phật giáo

Số phận con người là lưu lạc và nó chỉ chấm dứt được sự lưu lạc khổ đau khi về đến quê hương:

Khách lâu ngày ly hương
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu
hoan đón chào mừng.
(Pháp Cú, Phẩm Hỷ Ái, 219, HT Thích Minh Châu dịch)

Quê hương, nhà, nguồn được nói nhiều trong kinh điển, ở đây chỉ nói về chữ Nguồn.

Những Kinh Đại Bát Nhã nói “Bát nhãtrí huệ tánh Không, sanh ra chư Phật, là mẹ của chư Phật”. Như thế nghĩa là tánh Không là mẹ, là nguồn sanh ra chư Phật.

Chư Phật chứng ngộ hoàn toàn tánh Khôngthị hiện ra đời từ tánh Khôngthuyết pháp và làm việc trong tánh Không, và nhập diệt là lại nhập vào tánh KhôngChúng sanh cũng thế, sanh ra đời với nghiệp tốt và nghiệp xấu của mình từ tánh Khônghiện hữu trong tánh Không, và chết đi với nghiệp tốt nghiệp xấu của mình trong tánh Không. Tất cả vũ trụ chúng sanh dầu nghiệp tốt và nghiệp xấu đều không thể ra ngoài tánh Không, không thể ra khỏi Nguồn tánh Không, dù có biết hay không biết.  Trong Kinh Đại Bát Nhã còn nói tánh Không đồng nghĩa với tánh Như.

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Hơn nữa, “Chúng sanh tức là Phật tánhPhật tánh tức là chúng sanh” (phẩm Bồ Tát Ca Diếp). Phật tánh “đều có” nơi tất cả chúng sanh nghĩa là Phật tánh là nguồn của tất cả chúng sanh. Và Phật tánh “tức là” tất cả chúng sanh nghĩa là Nguồn Phật tánh ấy vẫn thường hằng có mặt nơi chúng sanh, không vì nghiệp của chúng sanh mà hư hoại. Chúng sanh tức là nguồn Phật tánh nghĩa là chúng sanh vốn là Phật, như Kinh Viên Giác nói, “Chúng sanh bổn lai thành Phật”.

Một Tantra căn bản của Đại Toàn Thiện có nhan đề là Supreme Source, Kunjed Gyalpo, do Chogyal Namkhai Norbu và Adriano Clemente dịch và giảng, nxb Thiện Tri Thức 2018. Dịch ra tiếng Việt là Nguồn Tối Thượng Kunjed Gyalpo, Tantra Căn bản của Dzogchen Semde.

Nguồn chung ấy, theo Kinh Hoa Nghiêm là:

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật, và chúng sanh
Cả ba không sai khác
(Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20).

Nói cách khác, tâm, Phật và chúng sanh, cả ba đồng nguồn.

3/ Về đến nguồn

Tất cả những con đường, những phương pháp, những pháp môn Phật giáo đều đưa chúng ta về đến nguồn ấy. Ở đây trích một ít kinh thông tin cho biết về đến nguồn sẽ như thế nào để người thực hành có thêm đam mêđộng lực mà đi tới cùng.

- Theo Kinh Đại Bát Nhã, nguồn ấy là “không có chỗ trụ” (vô sở trụ). Và vì nguồn không ở riêng một nơi nào cả nên nguồn ấy ở khắp tất cả chỗ, trong mọi không gian, trong mọi thời gian.

Về đến quê nhà thì thấy khắp cả đều là quê nhà, nghĩa là đều là tánh Không, tánh Như. Thế nên Kinh Viên Giác nói:

“Vì tất cả vốn là Giác vậy” (Chương Bồ tát Phổ Nhãn).

Kinh Kim Cương nói:

“Như Lai tức là nghĩa Như của tất cả các pháp… Thế nên Như Lai nói: Tất cả các pháp đều là Phật pháp”.

Thiền sư Thường Chiếu (?- 1203) có hai bài kệ:

Ở đời làm thân người
Tâm là Như Lai tạng
Chiếu sáng khắp muôn phương
Tìm đó lại trống không.

Và:

Đạo vốn không nhan sắc
Mỗi ngày mỗi mới khoe
Ngoài vô số cõi nước
Nơi đâu chẳng phải nhà.

Người chứng ngộ được nguồn tâm, “Tâm là Như Lai tạng” thì ở đâu cũng là quê hương, là nhà, là cội nguồn, “Nơi đâu chẳng phải nhà”.

- Khi về đến nguồn thì cảnh giới sanh tử bất tịnh của chúng sanh được chuyển hóa thành cảnh giới thanh tịnh Như Lai. Đó là vì tâm vô minh phân biệt bất tịnh của chúng sanh đã trở về nguồn tâm vốn thanh tịnh của Như Lai.

Đại Bồ tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Biết tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cảnh giới các cõi, tất cả cảnh giới của pháp, tất cả cảnh giới chúng sanhcảnh giới chân như không khác biệt, cảnh giới pháp giới không chướng ngạicảnh giới không có cảnh giới, đều là cảnh giới Như Lai”.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai Xuất Hiện thứ 37).

Khi về đến nguồn thì tất cả mọi cảnh giới của chúng sanh, núi sông, đất đai, cây, đá… đều là cảnh giới của nguồn tánh Không – tánh Như thanh tịnh vậy.

- Các Kinh Đại thừa thường nói, “sanh tử tức là Niết bàn”. Ở đây trích một câu trong Kinh Viên Giác, phẩm Phổ Nhãn, để hiểu ở nguồn thì sanh tử và chúng sanh sẽ được thấy như thế nào.

“Mới biết chúng sanh xưa nay thành Phậtsanh tử Niết bàn giống như giấc mộng đêm qua”.

“Sanh tử Niết bàn giống như giấc mộng đêm qua”: Sanh tử và Niết bàn đồng là tánh Không, đồng một nguồn tánh Không – tánh Như. “Mới biết chúng sanh xưa nay thành Phật”: chúng sanh và chư Phật đều đồng nguồn, đều xuất hiện từ đồng một nguồn tánh Không - tánh Như.  

Đồng nguồn, đó là đại từ đại bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3875)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5515)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10615)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6148)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9427)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6481)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6030)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7538)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7367)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5251)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8171)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5979)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9700)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7435)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7494)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6297)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5362)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5922)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5709)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3997)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5747)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4133)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7580)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5763)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 22021)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5672)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7133)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5067)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6474)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5852)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5036)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7081)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6071)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5603)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5920)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6048)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6874)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6456)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6105)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6539)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6221)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6416)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5637)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6947)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4585)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7822)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6079)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7329)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7759)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5532)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5171)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5715)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5564)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5547)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5045)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4311)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6102)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5657)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6312)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant