Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

09 Tháng Hai 202309:32(Xem: 1449)
Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian


Nguyễn Thế Đăng


Bo Tat

Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tátĐời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.

Tôi sẽ trừ diệt phiền não cho tất cả chúng sanh. Tôi phải đóng cửa các nẻo đường xấu ác cho tất cả chúng sanh, mở cửa các nẻo đường tốt thiện cho tất cả chúng sanh… Dũng mãnh phấn chấn tiến lên, vì có thể ở trong trận chiến lớn sanh tử, diệt tan tất cả phiền não oán thù”. (những câu kinh trích trong bài này đều lấy từ Phẩm Ly Thế Gian thứ 38, Kinh Hoa Nghiêm).

Để tiến hành trận chiến lớn lâu dài như vậy, ngoài những đức tính, những nguyện hạnh, từ bi… được nói đến rất nhiều trong kinh, người tu hạnh Bồ tát cần phải có quan niệm đúng, cái nhìn đúng (chánh kiến) về sanh tử và tất cả chúng sanh. Không có cái thấy đúng về những đối tượng cần giúp đỡ, cứu độ, thì không thể chịu đựng nổi, mệt mỏichán ngán, và phải bỏ môi trường và cũng là chiến trường sanh tử.

 

1/ Cái thấy đối tượng chúng sanh cần cứu giúp

Bồ tát làm việc vì chúng sanh, vì thấy chúng sanh khổ đau, nghèo nàn, mê ngủ… nên phát tâm đại bi:

Các Phật tử! Đại Bồ tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi đại bi:
Quán sát chúng sanh tánh khí chẳng điều thuận mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo cùng không có thiện căn mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh làm pháp chẳng thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh bị dục trói buộc mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh chìm trong biển sanh tử mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không muốn pháp thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mất những Phật pháp mà khởi đại bi.
Bồ tát hằng dùng tâm này quán sát chúng sanh”.

 

Đại bi là động lực làm việc của Bồ tát. Nhưng sự làm việc ấy không làm cho Bồ tát mệt mỏi, nản chí, vì Bồ tát hành động với cái thấy thật tướng của chính mình và của chúng sanh. Không những với chúng sanh, mà với những phiền não vô tận của chúng sanhBồ tát vẫn “chẳng kinh sợ”, vì biết chúng “vốn không có tạo tác”:

Đại Bồ tát thấu rõ tự thân và chúng sanh vốn xưa nay tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp vốn không có tạo tác mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy nơi các cảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng ca ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người khác, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhất thiết trí. Tuy biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy hằng quán sát không có người, không có ta, mà giáo hóa chúng sanh không nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới xưa nay bất động, mà dùng thần thông trí lực hiện các biến hóa. Tuy nhất thiết chủng trí vốn đã thành tựu, mà không ngừng nghỉ tu Bồ tát hạnh. Tuy biết các pháp không thể nói năng mà chuyển pháp luân thanh tịnh làm cho đại chúng hoan hỷ”.

Ta và người vốn xưa nay tịch diệt, vốn là tánh Không, không có người không có ta nhưng vẫn làm Bồ tát hạnh thuyết pháp độ sanhtrang nghiêm cõi Phật. Như thế Bồ tát hạnh khiến hành giả đi sâu và rộng vào pháp giới Chân Không - Diệu Hữu.

Cách hành văn “Tuy… mà” hợp nhất hai sự mâu thuẫn đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa được lại là Trung đạo của Bồ tát.

Trí minh của Bồ tát thấy thật tướng của tất cả chúng sanh, từ đó với tâm đại bi gánh vác tất cả chúng sanh:

Trí minh duyên khởi thiện xảo biết tất cả chúng sanh, sanh vốn không sanh vì thấu đạt sự thọ sanh bất khả đắc… Thế nên Bồ tát thường giáo hóa chúng sanh thân không mỏi nhọc, chẳng trái việc làm của tất cả thế gian.

Trí minh thiện xảo nơi Phật vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi pháp vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi cõi vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi chúng sanh vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng sanh mà thật hành giáo hóa điều phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ đại bi đại nguyện, thấy Phật nghe pháp tùy thuận tu hànhy chỉ nơi những thiện căn của Như Lai cung kính cúng dường không ngừng nghỉ”.

Thấy chúng sanh như vậy, làm việc như vậy, phiền não khổ đau của chúng sanh như vậy, nên hành động mà vẫn giải thoát, đi dần vào pháp giới Hoa Nghiêm của chư Phật.

 

2/ Cái thấy thế gian, môi trường của sự cứu độ

Bồ tát thấy thế gian, mọi sự vật và mọi chúng sanh, tất cả các pháp, đều như sự huyễn, như mộng, có xuất hiện nhưng thực chất là tánh Không:

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Đây là công cụ trợ đạo thứ sáu, vì có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Quán sát năm uẩn đều như sự huyễn, mười tám giới như rắn độcmười hai xứ như rỗng không. Tất cả pháp như huyễn, như sóng nắng, như trăng trong nước, như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình (trong gương), như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu cầu vồng, như ánh sáng mặt trời mặt trăngkhông tướng không hình, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tánh tất cả pháp là không tịch”.

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm: tự tánh hay bản tánh của tâm vốn là tánh Khôngsáng tỏ và không thể ô nhiễm nên có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không thậtQuán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Thấy tất cả các pháp đều duyên khởi, tức là thấy trực tiếp các pháp là tánh Không, và tánh Không chính là sự thanh tịnh không cái gì có thể làm ô nhiễm:

Đại Bồ tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy cõi nước thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ tát, vì tu hành tích tập nhất thiết trí”.

Khi trí huệ khai mở, Bồ tát thấy môi trường làm việc cứu độ của mình là cõi nước thanh tịnh cho đến pháp giới đều thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khách trần phiền não mà thọ các khổ. Biết như vậy rồi, đối với các chúng sanh mà khởi đại bi, tên là Bản tánh thanh tịnh, vì họ mà thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp như dấu chim trong hư khôngchúng sanh si mù, chẳng thể quán sát chiếu rõ các pháp, với họ khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn”.

Qua hoạt động Bồ tát hạnhBồ tát thấy biết môi trường thế gian là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh.

 

Qua Bồ tát hạnhBồ tát thấy rõ tánh và tướng của thế gian, tất cả pháp đều là Phật pháp, từ đó thế gian này chuyển hóa thành cõi nước Phật:

Lại nghĩ rằng: tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian mà thực hành Bồ tát hạnh, khiến quang minh thanh tịnh của tất cả pháp chiếu sáng tất cả Phật pháp. Khi phát tâm này quyết định không nghi.

Lại nghĩ rằng tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháptùy tâm chúng sanh, vì họ mà diễn nói đều khiến khai ngộ. Lúc phát tâm này quyết định không nghi”.

Biết tất cả pháp đều là Phật phápBồ tát có tất cả phương tiện thiện xảo để khai ngộ cho chúng sanh. Về phần Bồ tát, việc biết tất cả pháp đều là Phật pháp khiến tất cả thế gian chuyển hóa thành cõi nước Phật.

 

3/ Cái thấy bản chất của hành động cứu giúp

Thể nhập tánh Không và đại bi thanh tịnhBồ tát làm việc mà không có người làm, không có ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Thế nên, ngay khi đang cứu độBồ tát tiến vào giải thoátgiác ngộ:

Đại Bồ tát quán sát như vầy: Không có một pháp nào tu Bồ tát hạnh, không có một pháp nào viên mãn Bồ tát hạnh, không có một pháp nào giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, không có một pháp nào cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Không có một pháp nào đối với Vô thượng Giác ngộ đã thành, đang thành, sẽ thành. Không có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, mà cũng không bỏ nguyện Vô thượng Giác ngộ, vì Bồ tát cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như thế mới sanh ra Vô thượng Giác ngộ. Thế nên nơi pháp tuy vô sở đắc mà siêng tu tập tăng trưởng nghiệp lành, thanh tịnh đối trịtrí huệ viên mãn niệm niệm tăng trưởng, đầy đủ tất cả. Tâm Bồ tát chẳng kinh sợ, chẳng nghĩ rằng: nếu tất cả pháp đều vốn tịch diệt thì tôi cầu đạo vô thượng đâu có ý nghĩa gì? Đây là tâm tăng trưởng như núi thứ mười”.

 

Bồ tát làm tất cả mọi việc để giúp đỡ, cứu độ chúng sanh, công việc này do tâm đại bi, nhưng mọi hành động đều ở trong trí huệ tánh KhôngVô tướngVô nguyệnTrí huệ tánh Không là trí huệ thanh tịnh, và đại bi không vướng mắc bởi chúng sanh và bởi đủ thứ phiền não của họ là đại bi thanh tịnh.

Không đến không đi là hạnh tu của Bồ tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.

Chẳng tăng chẳng giảm là hạnh tu của Bồ tát, vì như bản tánh.

Chẳng có chẳng không là hạnh tu của Bồ tát, vì không có tự tánh.

Như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như sóng nắng khi trời nóng, như mặt trăng trong nước là hạnh tu của Bồ tát, vì lìa tất cả sự bám nắm.

Không, Vô tướngVô nguyệnVô tác là hạnh tu của Bồ tát, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ”.

 

Tóm lại, đối tượng chúng sanhthế giới chúng sanh, hành động cứu giúp của Bồ tát đều trở nên thanh tịnh nhờ vào tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh. Đó là con đường Bồ tátBồ tát hạnh, khiến cho thế giới chúng sanh chuyển hóa thành cõi nước thanh tịnh, một cõi Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5211)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2677)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6156)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3070)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3119)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3253)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3310)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4578)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2743)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5237)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3891)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3855)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3220)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4159)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5074)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3534)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6768)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3980)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3232)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3112)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2975)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5887)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4648)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2911)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3322)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4443)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5739)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6655)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3740)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4546)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4625)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3989)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3415)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4653)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6078)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5856)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3652)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4704)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4471)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4547)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4281)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4613)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8237)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3936)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5735)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5224)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6875)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6198)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6008)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5823)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6314)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6805)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4991)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5583)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6408)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3802)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5441)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10489)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant