Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

09 Tháng Hai 202309:32(Xem: 1480)
Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian


Nguyễn Thế Đăng


Bo Tat

Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tátĐời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.

Tôi sẽ trừ diệt phiền não cho tất cả chúng sanh. Tôi phải đóng cửa các nẻo đường xấu ác cho tất cả chúng sanh, mở cửa các nẻo đường tốt thiện cho tất cả chúng sanh… Dũng mãnh phấn chấn tiến lên, vì có thể ở trong trận chiến lớn sanh tử, diệt tan tất cả phiền não oán thù”. (những câu kinh trích trong bài này đều lấy từ Phẩm Ly Thế Gian thứ 38, Kinh Hoa Nghiêm).

Để tiến hành trận chiến lớn lâu dài như vậy, ngoài những đức tính, những nguyện hạnh, từ bi… được nói đến rất nhiều trong kinh, người tu hạnh Bồ tát cần phải có quan niệm đúng, cái nhìn đúng (chánh kiến) về sanh tử và tất cả chúng sanh. Không có cái thấy đúng về những đối tượng cần giúp đỡ, cứu độ, thì không thể chịu đựng nổi, mệt mỏichán ngán, và phải bỏ môi trường và cũng là chiến trường sanh tử.

 

1/ Cái thấy đối tượng chúng sanh cần cứu giúp

Bồ tát làm việc vì chúng sanh, vì thấy chúng sanh khổ đau, nghèo nàn, mê ngủ… nên phát tâm đại bi:

Các Phật tử! Đại Bồ tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi đại bi:
Quán sát chúng sanh tánh khí chẳng điều thuận mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo cùng không có thiện căn mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh làm pháp chẳng thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh bị dục trói buộc mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh chìm trong biển sanh tử mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không muốn pháp thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mất những Phật pháp mà khởi đại bi.
Bồ tát hằng dùng tâm này quán sát chúng sanh”.

 

Đại bi là động lực làm việc của Bồ tát. Nhưng sự làm việc ấy không làm cho Bồ tát mệt mỏi, nản chí, vì Bồ tát hành động với cái thấy thật tướng của chính mình và của chúng sanh. Không những với chúng sanh, mà với những phiền não vô tận của chúng sanhBồ tát vẫn “chẳng kinh sợ”, vì biết chúng “vốn không có tạo tác”:

Đại Bồ tát thấu rõ tự thân và chúng sanh vốn xưa nay tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp vốn không có tạo tác mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy nơi các cảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng ca ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người khác, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhất thiết trí. Tuy biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy hằng quán sát không có người, không có ta, mà giáo hóa chúng sanh không nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới xưa nay bất động, mà dùng thần thông trí lực hiện các biến hóa. Tuy nhất thiết chủng trí vốn đã thành tựu, mà không ngừng nghỉ tu Bồ tát hạnh. Tuy biết các pháp không thể nói năng mà chuyển pháp luân thanh tịnh làm cho đại chúng hoan hỷ”.

Ta và người vốn xưa nay tịch diệt, vốn là tánh Không, không có người không có ta nhưng vẫn làm Bồ tát hạnh thuyết pháp độ sanhtrang nghiêm cõi Phật. Như thế Bồ tát hạnh khiến hành giả đi sâu và rộng vào pháp giới Chân Không - Diệu Hữu.

Cách hành văn “Tuy… mà” hợp nhất hai sự mâu thuẫn đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa được lại là Trung đạo của Bồ tát.

Trí minh của Bồ tát thấy thật tướng của tất cả chúng sanh, từ đó với tâm đại bi gánh vác tất cả chúng sanh:

Trí minh duyên khởi thiện xảo biết tất cả chúng sanh, sanh vốn không sanh vì thấu đạt sự thọ sanh bất khả đắc… Thế nên Bồ tát thường giáo hóa chúng sanh thân không mỏi nhọc, chẳng trái việc làm của tất cả thế gian.

Trí minh thiện xảo nơi Phật vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi pháp vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi cõi vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi chúng sanh vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng sanh mà thật hành giáo hóa điều phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ đại bi đại nguyện, thấy Phật nghe pháp tùy thuận tu hànhy chỉ nơi những thiện căn của Như Lai cung kính cúng dường không ngừng nghỉ”.

Thấy chúng sanh như vậy, làm việc như vậy, phiền não khổ đau của chúng sanh như vậy, nên hành động mà vẫn giải thoát, đi dần vào pháp giới Hoa Nghiêm của chư Phật.

 

2/ Cái thấy thế gian, môi trường của sự cứu độ

Bồ tát thấy thế gian, mọi sự vật và mọi chúng sanh, tất cả các pháp, đều như sự huyễn, như mộng, có xuất hiện nhưng thực chất là tánh Không:

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Đây là công cụ trợ đạo thứ sáu, vì có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Quán sát năm uẩn đều như sự huyễn, mười tám giới như rắn độcmười hai xứ như rỗng không. Tất cả pháp như huyễn, như sóng nắng, như trăng trong nước, như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình (trong gương), như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu cầu vồng, như ánh sáng mặt trời mặt trăngkhông tướng không hình, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tánh tất cả pháp là không tịch”.

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm: tự tánh hay bản tánh của tâm vốn là tánh Khôngsáng tỏ và không thể ô nhiễm nên có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không thậtQuán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Thấy tất cả các pháp đều duyên khởi, tức là thấy trực tiếp các pháp là tánh Không, và tánh Không chính là sự thanh tịnh không cái gì có thể làm ô nhiễm:

Đại Bồ tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy cõi nước thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ tát, vì tu hành tích tập nhất thiết trí”.

Khi trí huệ khai mở, Bồ tát thấy môi trường làm việc cứu độ của mình là cõi nước thanh tịnh cho đến pháp giới đều thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khách trần phiền não mà thọ các khổ. Biết như vậy rồi, đối với các chúng sanh mà khởi đại bi, tên là Bản tánh thanh tịnh, vì họ mà thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp như dấu chim trong hư khôngchúng sanh si mù, chẳng thể quán sát chiếu rõ các pháp, với họ khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn”.

Qua hoạt động Bồ tát hạnhBồ tát thấy biết môi trường thế gian là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh.

 

Qua Bồ tát hạnhBồ tát thấy rõ tánh và tướng của thế gian, tất cả pháp đều là Phật pháp, từ đó thế gian này chuyển hóa thành cõi nước Phật:

Lại nghĩ rằng: tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian mà thực hành Bồ tát hạnh, khiến quang minh thanh tịnh của tất cả pháp chiếu sáng tất cả Phật pháp. Khi phát tâm này quyết định không nghi.

Lại nghĩ rằng tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháptùy tâm chúng sanh, vì họ mà diễn nói đều khiến khai ngộ. Lúc phát tâm này quyết định không nghi”.

Biết tất cả pháp đều là Phật phápBồ tát có tất cả phương tiện thiện xảo để khai ngộ cho chúng sanh. Về phần Bồ tát, việc biết tất cả pháp đều là Phật pháp khiến tất cả thế gian chuyển hóa thành cõi nước Phật.

 

3/ Cái thấy bản chất của hành động cứu giúp

Thể nhập tánh Không và đại bi thanh tịnhBồ tát làm việc mà không có người làm, không có ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Thế nên, ngay khi đang cứu độBồ tát tiến vào giải thoátgiác ngộ:

Đại Bồ tát quán sát như vầy: Không có một pháp nào tu Bồ tát hạnh, không có một pháp nào viên mãn Bồ tát hạnh, không có một pháp nào giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, không có một pháp nào cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Không có một pháp nào đối với Vô thượng Giác ngộ đã thành, đang thành, sẽ thành. Không có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, mà cũng không bỏ nguyện Vô thượng Giác ngộ, vì Bồ tát cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như thế mới sanh ra Vô thượng Giác ngộ. Thế nên nơi pháp tuy vô sở đắc mà siêng tu tập tăng trưởng nghiệp lành, thanh tịnh đối trịtrí huệ viên mãn niệm niệm tăng trưởng, đầy đủ tất cả. Tâm Bồ tát chẳng kinh sợ, chẳng nghĩ rằng: nếu tất cả pháp đều vốn tịch diệt thì tôi cầu đạo vô thượng đâu có ý nghĩa gì? Đây là tâm tăng trưởng như núi thứ mười”.

 

Bồ tát làm tất cả mọi việc để giúp đỡ, cứu độ chúng sanh, công việc này do tâm đại bi, nhưng mọi hành động đều ở trong trí huệ tánh KhôngVô tướngVô nguyệnTrí huệ tánh Không là trí huệ thanh tịnh, và đại bi không vướng mắc bởi chúng sanh và bởi đủ thứ phiền não của họ là đại bi thanh tịnh.

Không đến không đi là hạnh tu của Bồ tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.

Chẳng tăng chẳng giảm là hạnh tu của Bồ tát, vì như bản tánh.

Chẳng có chẳng không là hạnh tu của Bồ tát, vì không có tự tánh.

Như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như sóng nắng khi trời nóng, như mặt trăng trong nước là hạnh tu của Bồ tát, vì lìa tất cả sự bám nắm.

Không, Vô tướngVô nguyệnVô tác là hạnh tu của Bồ tát, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ”.

 

Tóm lại, đối tượng chúng sanhthế giới chúng sanh, hành động cứu giúp của Bồ tát đều trở nên thanh tịnh nhờ vào tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh. Đó là con đường Bồ tátBồ tát hạnh, khiến cho thế giới chúng sanh chuyển hóa thành cõi nước thanh tịnh, một cõi Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5507)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10609)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6140)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9417)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6480)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6027)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7536)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7362)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5248)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8160)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5976)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9695)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7431)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7486)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6292)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5352)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5917)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5708)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3994)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5746)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4127)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7579)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5755)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21999)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5668)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7122)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5065)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6472)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5846)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5030)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7081)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6069)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5598)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5916)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6043)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6869)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6455)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6105)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6538)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6216)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6414)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5635)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6942)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4583)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7819)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6075)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7326)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7757)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5531)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5168)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5712)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5561)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5546)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5043)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4307)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6100)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5655)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6309)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8546)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant