Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

27 Tháng Hai 202317:23(Xem: 1622)
Phật Giáo Và Vấn Đề Giai Cấp Xã Hội
Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Thích Trung Định

Nghiệp & Dị Thục


Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh, xung đột, bạo lực đều có nguyên nhân từ sự phân biệt, kỳ thị giai cấp. Trong thời đại Đức Phật, sự phân biệt, kỳ thị giai cấp đã ăn sâu trong tư tưởng người Ấn và trở thành một trật tự xã hội. Lãnh đạo xã hội dựa trên giai cấp và được kế thừa theo huyết thống không thay đổi từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Xã hội Ấn Độ cổ đại được chia thành bốn giai cấp. Đầu tiên là giai cấp Bà-la-môn (Brahmani) chưởng quản về các tư tế, các nhà trí thức, chú giải kinh điển Vedas, chuyên trách giáo dục. Giai cấp thứ hai là Sát-đế-lợi (Kshatriya) gồm các nhà lãnh đạo, tướng lãnh, các chiến sĩ. Giai cấp thứ ba là Phệ-xá (Vaishya) chưởng quản về các ngành nghề, thương gia, điền chủ, các nghề thủ công. Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la (Shudra) gồm các người làm việc nặng nhọc như nhân công, thợ thuyền, đầy tớ.

Dưới đáy xã hội là các người “ngoài giai cấp” thường được gọi là các người “paria” hay “không thể đụng tới”, hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) và những người này đã vi phạm luật lệ và mất các quyền xã hộitôn giáo. Họ chuyên làm vệ sinh, những việc dơ bẩn nhất và chôn xác người chết. Ngày nay những người “paria” này tự xem là “dalit”, những người bị áp bức.

Hệ thống phân chia giai cấp trên đây dựa vào kinh Rig Veda. Theo đó, giai cấp Bà-la-môn cao nhất, bắt nguồn từ đầu của thần tạo dựng Brahma. Giai cấp Sát-đế-lợi và Phệ-xá bắt nguồn từ hai cánh tay và hai chân của thần. Giai cấp Thủ-đà-la thấp nhất, bắt nguồn từ hai chân của thần Brahma.

Theo Vinayak Jadav, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề giai cấp trong xã hội Ấn: “Các biểu hiện bên ngoài của hệ thống phân chia giai cấp tại Ấn Độ ngày nay không còn hiển nhiên như trước. Người ta không còn tuân giữ các luật lệ cứng nhắc của việc kỳ thị. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cách tinh vi trong các thói quen kỳ thị giữa các giai tầng xã hội.

Chẳng hạn, lãnh đạo chính quyền dành ưu tiên cho giai cấp cao, trong khi những giai cấp thấp ít có cơ hội tiến thân. Trong học vấn cũng vậy, có người giai cấp thấp đỗ đạt cao nhưng khó ra lãnh đạo, ngoại trừ những nhân vật xuất chúng. Không có ai trong giai cấp cao lập gia đình với một người thuộc giai cấp thấp hơn, vì họ sợ những hệ lụy liên quan đến bản thân.”1

Theo một số nhà lãnh đạo cấp tiến thì không có xã hội nào có thể dựa trên một ý thức hệ thù hận và kỳ thị mà bình yên được. Như Mahatma Gandhi đã nói: “Các giai cấp xã hội là một vết nhơ nhục nhã trên trán của Ấn Độ”.2

Trong bốn giai cấp thì Thủ-đà-la có vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, tình trạng của họ vẫn còn tốt hơn những người “hạ tiện”, vì họ còn được coi là con người, trong khi tình trạng của những người “ngoài giai cấp” thấp hơn cả con người, thậm chí như súc vật. Và sự phân chia giai cấp này mang tính cha truyền con nối, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, suốt đời suốt kiếp không thay đổi được.

Lập luận chính của Đức Phật chống lại sự phân chia giai cấp này, đó là không có con người nào có thể cao thượng hay thấp hèn trong xã hội chỉ vì lý do mình sinh ra. Địa vị xã hội của con người phụ thuộc vào chính hành vi của họ. Điều này có nghĩa rằng, dựa theo thái độhành vi (nghiệp) của một người sẽ làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không phải vì giai cấp.

Đức Phật luôn nhấn mạnh vai trò của cá nhân con ngườitrung tâm của cải cách xã hội. Xã hội là sự kết hợp của các cá nhân; do đó, cải cách cá nhân có nghĩa là cải cách xã hội. Mọi người đều có khả năng thành Phật. Như những con sông về với biển đều phải bỏ tuổi, bỏ tên. Cũng vậy, trong Giáo hội của Như Laibốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

Khi họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, họ cũng từ bỏ giai cấp, bỏ họ, bỏ tên, bỏ danh vọng, bỏ địa vị, bỏ sự nghiệp, bỏ quê hương, chủng tộc để chỉ còn là những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, là những Sa-môn Thích tử! Đức Phật chỉ dựa vào tiêu chí về tu hành, đức hạnhtrí tuệ, chứ không phụ thuộc vào dòng giống nơi mình sinh ra. Mọi người đều bình đẳng vì mỗi người đều có thể hoàn thành những mục tiêu cao cả.

Đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà-la-môn, rằng “Vị trí xã hội của con người phụ thuộc vào sự ra đời của họ”, Ngài dạy:

“Không phải do sinh ra, người ta trở thành thấp/ Không phải do sinh ra, người ta trở thành cao quý/ Nhưng bằng hành động, một người trở thành thấp/ Và bằng hành động, người ta trở thành cao quý”.

Đức Phật chỉ rõ, hành động (nghiệp) của người đó mới quan trọng, không phải là hoàn cảnh ra đời của họ. Một điểm quan trọng khác cần làm rõ là liệu một người sinh ra trong một giai cấp thấp có phải vì nghiệp xấu trước đây của họ? Khả năng này được thừa nhận trong Phật giáo, như được hiểu trong học thuyết về nghiệp.

Đức Phật không bao giờ chấp nhận sự cao quý hay thấp kém dựa trên nơi chốn hay đẳng cấp mà họ sinh ra. Học thuyết luân hồi tái sinh của Phật giáo giải thích cho chúng ta hiểu, kết quả mình có trong hiện tại một phần do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nghiệp theo Phật giáo không phải định nghiệp mà là bất định nghiệp. Do đó, con người có thể chuyển đổi hoàn cảnh của mình do sự nỗ lực của cá nhân có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại.

Đạo đức và sự phát triển tâm linh không phải là một đặc quyền của cá nhân, giai cấp. Đức Phật dạy rằng, tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp đều bình đẳng trước pháp luật về đạo đức. Người có thân phận thấp kém sau khi xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật trở thành thánh thiện đều được mọi người tôn kính. Quả vị giác ngộ dành cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tánh. Nếu ai nỗ lực đúng cách thì đạt được quả vị cao quý ấy.

Trong rất nhiều bản kinh, Đức Phật đã lên tiếng chống lại hệ thống đẳng cấp. Kinh Ambattha (thuộc Trường bộ), kinh Assalayana (thuộc Trung bộ)…, Đức Phật đều tranh luận mạnh mẽ, thẳng thừng phê phán, quyết liệt chống lại quan điểm bảo thủ giai cấp của Bà-la-môn.

Bài kinh Assalāyana (Trung bộ), cho thấy sự tranh luận quyết liệt này. Thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”3.

Đức Phật lần lượt đưa ra những luận lý của mình để giải thích, chứng minh rằng lời tuyên bố đó là vô căn cứ. Ngài nói rằng, sự thanh tịnh là kết quả của việc thực hành giới hạnh, không phải do sinh ra mà có. Đức Phật thậm chí tước bỏ tính di truyền của danh từ ‘Bà-la-môn’ và đem danh từ đó trở về ý nghĩa ban đầu của một người thánh thiện, xác định một người Bà-la-môn thực sự chính là vị A-la-hán. “Không biết chỗ sở thủ/ Thiên, Nhân, Càn-thát-bà/ Lậu hoặc được đoạn trừ/ Bậc Ứng cúng, La-hán/ Kẻ ấy Ta mới gọi/ Chánh danh Bà-la-môn”4

Ngay từ ban đầu, Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong suốt quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, giai cấp chỉ là một vấn đề quy ước của con người. Đức Phật dạy: “Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả”.

Một người xuất thân từ dòng dõi thấp kém vào trong giáo pháp của Như Lai, vẫn có thể chứng được quả vị A-la-hán. “Không có đẳng cấp khi nước mắt cùng mặn, khi máu cùng đỏ”. Hãy đánh giá một người qua hạnh nghiệp của người đó, chứ đừng đánh giá người đó bởi dòng dõi họ sinh ra. Những ai đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì phải cạo bỏ râu tóc như là sự từ bỏ đẳng cấp riêng để tìm về cái chung, cũng như nước của mọi con sông đều trở thành vị mặn khi cùng đổ ra biển lớn… Hãy nên lấy nỗi khổ đau của người làm nỗi đau của chính mình mới vỡ lẽ nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong giáo pháp, và tất cả đều có khả năng đạt được giác ngộ, bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.

Tóm lại, sự phân biệt giai cấp trong xã hội loài ngườithể không bao giờ chấm dứt, nhưng tiếng nói chân chính của Phật giáo bảo vệ những người thấp yếu cũng như cho tất cả mọi người là rất đáng trân trọng. Tư tưởng Phật giáo góp phần xóa bỏ kỳ thị, xua tan thù hận, hàn gắn tang thương, thay đổi nhận thức và có thái độ sống tích cực, mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.

-------------------------

(1) https://minhtrietviet.net/te-nan-phan-chia-giai-cap-trong-xa-hoi-an-do/

(2)Tâm thức phân chia giai cấp tại Ấn Độ” http://vi.radiovaticana.va/storico/2010/11/16/.

(3) Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Trung bộ, tập 2, NXB Tôn Giáo, 2016, p. 185.

(4) Sđd, p.248.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7416)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6352)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5956)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4736)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5663)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5828)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6107)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6586)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5925)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7030)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6630)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4754)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4908)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7678)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9799)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7498)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5302)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6412)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5402)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5819)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6385)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5688)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6398)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7049)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6263)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10638)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6662)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6140)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6702)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6100)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6475)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5505)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8226)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5723)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7551)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6238)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9648)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4054)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6380)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4156)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4299)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4747)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5302)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5266)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5806)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6757)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5544)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4488)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5326)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4967)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4352)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6861)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4596)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8396)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7207)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8355)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7484)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7559)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6094)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9970)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant