Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Quán Luận (2022)

02 Tháng Tư 202318:58(Xem: 1480)
Nhập Trung Quán Luận (2022)
Nhập Trung Quán Luận (2022)

Đức Đạt Lai Lạt Ma

dalai-lama


NGÀY ĐẦU TIÊN 15-9-2022


Thekchen Chöling, Dharamsala, HP, Ấn Độ, ngày 15 tháng 9 năm 2022

Sáng nay, một nhóm Chư Tăng Phật giáo Thái Lan đã tụng kinh Mangala bằng tiếng Pali khi Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma an toạ trên Pháp Toà ở Tsuglagkhang, chùa Chính Tây Tạng ở Dharamsala. Tiếp theo sau đó là ‘Bát Nhã Tâm Kinh’ được tụng bằng tiếng Hoa, bao gồm cả lời cầu nguyện mà người Trung Quốc thường tụng ở phần cuối khi kết thúc buổi hành Pháp của mình:

“Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ Tát Đạo.”

Đức Ngài bắt đầu bằng cách đọc bài Kệ cuối cùng của phần kính lễ trong ‘Trí tuệ Căn bản Trung Quán Luận’ của Ngài Long Thọ:

“Con xin kính lễ Đức Cồ Đàm
Bậc đã thông qua lòng Bi mẫn
Giảng dạy Giáo Pháp quý tuyệt trần
Quan điểm sai lầm đều dứt tận”.

Ngài giải thích: “Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn. Nếu chúng ta muốn làm được điều này, thì ta cần nghiên cứu, suy ngẫm về những gì chúng ta đã học; và suy ngẫm về những gì mà chúng ta đã hiểu.

“Lần đầu tiên tôi nghe về tính không, tôi cảm thấy nó rất hay, nhưng chỉ sau khi tôi nghiên cứu về 'Trí tuệ Căn bản'‘Nhập Trung Quán Luận’ và 'Tự luận' của nó; và suy nghĩ sâu sắc về nó, thì tôi mới có niềm tin xác tín.

“Nếu quý vị suy nghĩ kỹ, quý vị sẽ thấy rằng các pháp không tồn tại từ phía riêng của chính nó. Như các nhà vật lý lượng tử đã quan sát, mọi thứ không tồn tại như cách nó trình hiện. Nó không có sự tồn tại khách quan nào cả!

“Tôi đã học thuộc lòng “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận” và “Nhập Trung Quán Luận” từ khi tôi còn rất bé. “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận” chủ yếu đề cập đến các Bồ Tát ĐịaBồ Tát Đạo - khía cạnh “phương tiện” của Đạo. “Nhập Trung Quán Luận” làm sáng tỏ về trí tuệ hiểu biết tánh không. Những quan điểm lệch lạc sai lầm không thể đoạn trừ được bằng cách trì tụng thần chú, mà chỉ có thể bằng phương pháp phát triển trí tuệ hiểu biết. Có nhiều bộ lý luận khác nhau được sử dụng để bác bỏ sự tồn tại khách quan của các pháp: lý luận được gọi là “Năng Đoạn Kim Cương”, lý luận bác bỏ các tác động của sự tồn tại hoặc không tồn tại, lý luận bác bỏ bốn hoán vị của sự phát sinh, lý luận bác bỏ sự tồn tại như 'không phải một cũng chẳng phải nhiều' và lý luận tuyệt vời của duyên khởi.

“Bài kệ mà tôi tụng lúc bắt đầu thì rất có năng lực, bởi vì nó nói rõ rằng Đức Phật đã dạy để giúp chúng sinh loại bỏ những quan điểm lệch lạc sai lầm của họ. Khi tôi suy ngẫm về tính không, tôi tập trung vào ba bài Kệ từ chương sáu của cuốn ‘Nhập Trung Quán Luận’, trong đó phác thảo những ngụy biện bất hợp lý xảy ra khi sự tồn tại khách quan được khẳng định.

Ngài đã lưu ý rằng Đức Phật đã trải qua sáu năm tu hành khổ hạnh, và Ngài đã phát hiện ra rằng chỉ có sự tập trung nhất tâm không thôi thì không thể khắc phục được những quan điểm méo mó sai lầm. Sau đó, những bậc thầy như Ngài Long Thọ đã xem xét những gì Đức Phật đã dạy dưới ánh sáng của logic và lý luận. Họ nói rõ rằng mọi thứ không tồn tại như chúng trình hiện. Truyền thống Nalanda xuất phát từ những khám phá của họ và truyền thống này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Đức Ngài nhận xét: “Là con người, chúng ta có cơ hội để nghiên cứu Giáo Pháp, để tìm hiểu và trải nghiệm nó. Khi tôi còn bé, tôi đã học thuộc lòng các bản văn quan trọng, lắng nghe Thầy Giáo Thọ giải thích về chúng và suy ngẫm sâu sắc về chúng. Khi sống lưu vong, tôi có thể thực sự suy ngẫm về những gì mà tôi đã học được, vì vậy, nhìn từ quan điểm đó, thì việc sống lưu vong giống như là một phước lành may mắn được ngụy trang. Thông qua việc nghiên cứu, suy ngẫm và thiền định, sự chuyển hoá sẽ diễn ra.

“Tôi có thể không khẳng định mình đã có được kinh nghiệm thực sự, nhưng tôi tự tin rằng những nỗ lực của mình đã mang lại cho tôi sự bình yên trong tâm hồn. Tôi khá thoải mái. Điều quan trọng là giải quyết cảm xúc của mình, chẳng hạn như xem xét cách thức mà cơn giận dữ nổi lên như thế nào; và làm sao để nó có thể được lắng dịu đi. Điều quan trọng không phải là quan tâm đến cuộc sống của kiếp sau, hay để đạt được sự toàn trí; mà là học cách đối phó với những cảm xúc tiêu cực ở đây và bây giờ.

“Dựa vào lời khuyên của Đức Phật rằng mọi thứ không có sự tồn tại khách quan, và tâm thức tỉnh vị tha; chúng ta có thể mang lại sự chuyển hoá cho chính mình. Chúng ta có thể học cách không làm tổn hại người khác mà là để giúp đỡ họ - chúng ta có thể học cách cư xử ấm áp nhân hậu.”

Đức Ngài đã chuyển sang ‘Nhập Trung Quán Luận’ và ‘Tự luận’ của nó. Ngài chỉ ra rằng tác giả của chúng, Ngài Nguyệt Xứng, là một đệ tử hàng đầu của Ngài Long Thọ. Ngài nói rằng Ngài đã nhận được sự truyền đạt về bản văn gốc từ vị Trụ trì của mình - Ling Rinpoché - và sự truyền đạt bản “Tự luận” từ Sakya Khenpo Kunga Wangchuk.

Ngài nhận thấy rằng khi bắt đầu luận thuyết của mình, Ngài Nguyệt Xứng đã bày tỏ lòng kính trọng đối với lòng từ bi vĩ đại; điều này ám chỉ đến sự thật rằng, các vị Phật trở nên giác ngộ thông qua sự kết hợp giữa Bồ Đề Tâm - bắt nguồn từ lòng từ bi; và trí tuệ hiểu biết tính không.

Đức Ngài đã tuyên bố rằng lòng từ bi, tình yêu thương và tình cảm là những phẩm chất rất quan trọng; bởi vì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều nếu chúng ta trau dồi những phẩm chất này. Sự chăm sóc của mẹ ngay từ lúc chúng ta chào đời đã cho ta bài học sớm về những phản ứng này, nhưng chúng ta dường như không còn hứng thú với chúng khi chúng ta đến tuổi đi học ở trường; vì ở trường chúng ít được chú ý đến. Ngài đề cập đến kế hoạch tổ chức các cuộc thảo luận với các nhà giáo dục về cách khôi phục lòng ngưỡng mộ đối với tình yêu thươnglòng từ bi trong hệ thống giáo dục.

Nhắc lại rằng Mahatma Gandhi đã đưa ra nguyên tắc lâu đời của ‘ahimsa’ - ý tưởng bất bạo động và không gây tổn hại - được biết đến rộng rãi, Đức Ngài tiết lộ rằng ngày nay thế giới cần phải học về lòng từ bi.

Đức Ngài bắt đầu đọc từ bài Kệ thứ 12 của chương đầu tiên, nêu bật về sự bố thí. Đọc đến cuối chương, Ngài lưu ý rằng các vị Bồ tát hoàn toàn cống hiến cho hạnh phúc của tha nhân. Ngài đọc tiếp bài Kệ thứ tư của chương thứ hai và tuyên bố rằng Ngài muốn giới thiệu về “Nhất thiết Du già Phát tâm”.

Ngài gợi ý: “Nếu quý vị chỉ nghĩ đến bản thân, thì quý vị chỉ quan tâm đến một người. Đây là một góc nhìn nhỏ hẹp trong bối cảnh tất cả chúng sinh khác cũng giống như quý vị; cũng muốn tìm kiếm hạnh phúc và tránh né khổ đau. Một phương pháp thông minh hơn đối với tư lợi là nghĩ đến những chúng sinh khác, nghĩ rằng không làm hại người khác và giúp đỡ họ càng nhiều càng tốt.

“Tiếp theo, hãy suy ngẫm về việc các pháp vốn dĩ trống không như thế nào đối với sự tồn tại khách quan, tồn tại độc lập. Ngài Nguyệt Xứng đã mô tả hiện thực này như sau:

"Như thế, được chiếu soi bằng ánh dương của tuệ giác;
Bồ tát thấy rõ như quả amla trong lòng bàn tay mở toạc;
Rằng ba cõi vốn dĩ vô sanh kể từ khoảnh khắc đầu tiên;
Và thông qua năng lực Tục Đế - Vị ấy tiến về nơi đoạn diệt."

“Ngài tiếp tục thuật lại cách mà vị Bồ Tát,

“Như Chúa Tể loài Thiên Nga luôn bay trước đầu đàn
Với đôi cánh của Chân ĐếTục Đế rộng dang.
Được thúc đẩy bởi sức mạnh của cơn gió đại hùng Giới Đức,
Vượt đến bờ bên kia, đạt được phẩm chất đại dương của Chiến thắng Huy hoàng.”

“Nếu quý vị kiểm tra xem thử mình là ai, quý vị sẽ thấy rằng cơ thể của mình không phải là mình. Tâm thức của mình không phải là mình, nhưng quý vị vẫn có cảm giác yêu quý chính mình một cách mạnh mẽ. Hãy nghĩ xem, dù quý vị đang đi đâu đó, hay chỉ đơn giản là nghỉ ngơi, quý vị không thể xác định được mối liên hệ giữa bản thân với cơ thể hoặc tâm thức của mình. Do đó, ta có thể kết luận rằng ý tưởng về cái tôi chỉ đơn thuần được định danh dựa trên tổ hợp các tổng thể tâm lý-vật lý.

Đức Ngài khuyên thính giả hãy quán tưởng Bồ đề Tâm xuất hiện như một đĩa mặt trăngvị trí tim của mình; và sự hiểu biết về “các pháp không có sự tồn tại độc lập” như một chày kim cương trắng đứng trên mặt trăng. Ngài đề nghị họ niệm “Om Sarva Yoga Chitta Utpadaya Mi” ba lần.

Đức Ngài tiết lộ rằng Ngài đã thấy sự chuyển hoá trong bản thân là kết quả của việc suy tư về Bồ đề Tâmtánh Không khi thức dậy vào buổi sáng trong nhiều năm. Ngài kêu gọi thính chúng của mình cũng hãy làm như vậy, hãy sống hạnh phúc và chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người khác.

NGÀY THỨ HAI 16-9-2022

Thekchen Chöling, Dharamsala, HP, Ấn Độ, ngày 16 tháng 9 năm 2022.

Khi Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma quang lâm đến sân sáng nay trên đường đến chùa, Ngài dừng lại để chú tâm đến một loạt các khay lớn mà mọi người đã đặt trên bàn để được ban phước gia trì. Sau đó, khi đi tiếp, Ngài liên tục nhìn về hai phía của con đường để mỉm cườivẫy tay chào các thành viên của công chúng.

Khi đi vòng quanh Điện Kalachakra, Ngài dừng lại để tựa vào lan can, nhìn xuống và vẫy tay với những người đang vân tập trên đường phố bên dưới. Tương tự như vậy, từ phía sau của Chùa Chính, Ngài mỉm cườivẫy tay chào những người đang cung chờ để được nhìn thoáng qua Ngài từ đường lên McLeod Ganj. Vào bên trong chùa, trước khi an toạ, Ngài đã chào hỏi và cúi lễ chư Tăng Thái Lan đang ngồi xung quanh Pháp Toà.

Bài ‘Bát Nhã Tâm Kinh’ được xướng lên đầu tiên bởi Chư Tăng Ni Việt Nam với tốc độ đều đặn vững chãi theo nhịp điệu của chiếc mõ có hình con cá gỗ. Tiếp theoTâm Kinh được tụng lại bởi một nhóm đến từ Indonesia.

Trước đám đông thính chúng ước tính lên tới 6100 người đến từ 57 quốc gia, bao gồm cả những người bảo trợ cụ thể của Pháp Hội, 650 Phật tử đến từ Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam, Đức Ngài nhận xét rằng đây là ngày thứ hai của Pháp Hội.

“Tất cả chúng ta đều giống nhau ở điểm khát khao được hạnh phúc và không muốn khổ đau. Ngài tiếp tục: trên hành tinh này, đã có một số vị thầy sáng lập của các truyền thống tôn giáo khác nhau, nhưng theo nhận định của Đức Phật thì đau khổ không phải là không có nguyên nhân. Những nguyên nhân này phát sinh từ hành động và phiền não tinh thần của chúng ta. Ngài khuyên rằng chúng ta cần phải nhận biết đau khổ, thoát khỏi nguồn gốc của nó, đạt được sự chấm dứttu luyện con đường để đạt được sự chấm dứt đó.

“Chúng ta cần hiểu được bản chất và mức độ của sự đau khổ. Có những thứ có vẻ là thú vị, nhưng thực sự về bản chất của nó là đau khổ. Sự đau khổbất như ý không nằm ở bên ngoài chúng ta, chúng là những thứ mà chúng ta trải nghiệm bên trong. Tuy nhiên, chúng tathể đạt được sự chấm dứt chúng bằng cách trau dồi con đường bao gồm ba sự rèn luyện cao hơn (Tam Vô Lậu Học) - Giới, Định, Tuệ.

“Đức Phật dạy rằng đau khổ cần phải được biết, nhưng không có gì để biết cả. Nguồn gốc của nó phải được khắc phục, nhưng chẳng có gì để khắc phục. Và điều này cũng đúng với sự chấm dứtcon đường đưa đến sự chấm dứt ấy. Bốn chân lý cao quý này (Tứ Diệu Đế) là nền tảng của Giáo lý Đức Phật, mấu chốt của nó là, nguyên nhân cuối cùng của đau khổ là một trạng thái tâm thức phiền não, lệch lạc. Phương pháp để đối trị lại điều này là Tứ Pháp Ấn:

Tất cả các pháp duyên sinh đều là vô thường
Tất cả pháp nhiễm ôđau khổ.
Tất cả các pháp đều rỗng không và vô ngã.
Niết bàn là thực sự yên bình, tịch tịnh.

“Lời dạy của Đức Phậthợp lýdựa trên quy luật nhân quả. Thực hành lời dạy ấy không phải là vấn đề cầu nguyện với Đức Phật; mà là khắc phục sự thiếu hiểu biết (vô minh) và những quan điểm méo mó sai lầm, bằng cách đi theo con đường chân chính. Khi quý vị đạt đến “gia hành đạo”, thì quý vị đã đạt được một số chấm dứt (diệt đế), và trên con đường “kiến đạo”, thì quý vị đã hiện thực hóa sự chấm dứt ấy.

“Khắc phục vô minh bao gồm việc hiểu được đau khổ là gì và nguyên nhân của nó là nghiệp và phiền não về mặt tinh thần. Nó đòi hỏi sự hiểu biết rằng mọi thứ không tồn tại như chúng trình hiện. Không có gì tồn tại mà không phụ thuộc vào các yếu tố khác. Mọi thứ chỉ đơn thuần là được gán danh chỉ định. Để đạt được sự chấm dứt đòi hỏi phải có sức mạnh của tâm thức. Khi quý vị hiểu rằng có thể đạt được sự chấm dứt (diệt đế), thì quý vị sẽ đi theo con đường để thực hành (đạo đế).”

Vào lúc này, Đức Ngài đã đọc một câu trong bài ‘Xưng Tán Duyên Khởi’ của Jé Tsongkhapa:

“Trở thành bậc xuất gia trên con đường của Đức Phật
Không giãi đãi trong việc nghiên cứu giáo lý của Ngài
Và bằng cách thực hành Du già với quyết tâm vĩ đại
Tu sĩ này đã phụng sự cho bậc Vĩ nhân truyền tải chân lý ấy!”

Và Ngài đã áp dụng những lời dạy ấy vào kinh nghiệm của chính mình. Ngài đã thọ giới sa dithọ giới cụ túc khi còn trẻ mà không có vấn đề gì cả. Kể từ thời điểm đó, Ngài đã trở thành một người xuất gia, Ngài đã học Giáo lý của Đức Phật. Bản chất của việc này là nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm và sự hiểu biết về tính Không. Ngài nói rằng giống như Ngài Tsongkhapa:

Bằng cách thực hành Du già với quyết tâm vĩ đại
Tu sĩ này đã phụng sự cho Bậc Vĩ Nhân truyền tải chân lý ấy - Đức Phật!”

Đức Ngài đã thông báo rằng Ngài rất vui khi được trả lời những câu hỏi của khán thính giả. Khi trả lời vấn đáp, Ngài giải thích rằng, vì việc bám chấp vào sự tồn tại thực sự của các hiện tượng (pháp) là cơ sở để bám chấp vào sự tồn tại thực sự của một con người (ngã), nên sẽ khó có thể hiểu được sự “vô ngã” của một con người nếu không nhận ra sự thiếu vắng sự tồn tại thực sự của các pháp.

Ngài nói thêm rằng các truyền thống và các trường phái tư tưởng khác khẳng định một linh hồn hoặc bản ngã không phụ thuộc vào các uẩn tinh thầnthể chất, trong khi Đức Phật thì phủ nhận sự tồn tại của một bản ngã như thế.

Đức Ngài làm rõ rằng, mặc dù việc phát triển sự thiền định nhất tâm là quan trọng, nhưng qua phân tích có thể hiểu rằng các pháp vốn không có sự tồn tại cố hữu. Ngài kể lại rằng Vị đại sư Ấn Độ - Liên Hoa Giới - học trò của Ngài Tịch Hộ , được mời đến Tây Tạng bởi Đức Vua lúc bấy giờ - Trisong Detsen. Ngài đã tham gia Cuộc tranh luận Samye với các Đạo Sư Trung Quốc - những người ủng hộ tầm quan trọng của thiền tập trung định tĩnh - vô niệm. Nhưng nhà vua đã quyết định chọn phương pháp phân tích sẽ phù hợp hơn với người dân Tây Tạng.

Đức Ngài nhận xét rằng, bằng cách áp dụng lý luận bảy phần, có thể tập trung vào bản thể Không tánh của một đối tượng, mà sau này cũng sẽ hữu ích khi ta phân tích tâm thức đã thực hiện sự phân tích ấy.

Ngài nói với một người phụ nữ đã nói về giấc mơ của cô ấy về những người đã chết rằng, đôi khi những giấc mơ như vậy xảy ra do những mối liên hệ trong quá khứ và những hoàn cảnh khác. Tuy nhiên, Ngài khuyên rằng những giấc mơ thì không đáng tin cậy, không nên đặt quá nặng vào đó.

Đức Ngài nhận xét rằng, tất cả chúng ta đều có ý thức chung về cái ‘tôi’, nhưng đó là khi chúng ta nghĩ về cái ‘tôi’ ấy không phụ thuộc vào các uẩn; và là chủ sở hữu; hoặc là người điều khiển của các uẩn - mà chúng ta bám chấp vào cái “ngã” của một con người. Một mặt chỉ có cái ‘tôi’; và mặt khác là sự bám chấp vào một “cái tôi độc lập”.

Ngài khuyến nghị sự tương tác nhiều hơn giữa các truyền thống tôn giáo sẽ dẫn đến sự hiểu biết rõ ràng hơn về các cách suy nghĩ và những sự thực hành khác. Ngài lưu ý rằng Đức Phật không đơn độc chấp nhận cuộc sống vô gia cư, những người theo các truyền thống khác cũng làm như vậy.

Về vấn đề thực hành tâm linh, Ngài gợi ý rằng, nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình thôi - thì không mang lại hạnh phúc. Thay vào đó, nó làm phát sinh sự lo lắngnghi ngờ. Tuy nhiên, nếu bạn quan tâm đến hạnh phúc của chúng sinh rộng lớn như không gian, thì bạn sẽ thấy mình định tĩnh và thoải mái hơn. Ngài trích dẫn lời khuyên của Ngài Tịch Thiên:

“Đối với người không thực sự hoán đổi hạnh phúc của mình
Cho những khổ đau của bao nhiêu người khác;
Thì chắc chắn cảnh giới Phật họ sẽ không bao giờ đạt;
Mà ngay cả trong luân hồi cũng sẽ chẳng thể nào vui."
 (8/131)

Đức Ngài thừa nhận rằng, việc cầu nguyện cho sư phụ của mình được trường thọ có thể có một số lợi ích, nhưng hiệu quả hơn nhiều là thực hành lời dạy mà Sư Phụ đã ban truyền, trong trường hợp là một Phật tử, liên quan đến Bồ Đề Tâm và sự hiểu biết về tính Không, thì món quà thực hành này là thứ thực sự sẽ kéo dài tuổi thọ của vị Thầy.

Đức Ngài nhận xét rằng, bước đầu tiên đơn giản khi đối mặt với đau khổ là nhìn nó từ một góc độ rộng lớn hơn. Một mặt hãy nghĩ rằng mình chỉ là một trong số rất nhiều người đang sống trên trái đất này, mặt khác nó có thể giúp ích cho việc giải quyết những trường hợp khác không lường trước được. Bao lâu chúng ta còn chìm đắm trong thái độ ái trọng tự thân, thì bấy lâu chúng ta sẽ gặp phải những phiền não xáo trộn, nhưng nếu phát triển sự hiểu biết về vô ngã thì có thể giúp chúng ta đối trị được với những cảm xúc tiêu cực của mình.

Ngài nhắc lại rằng, khi chúng ta bám chấp vào “cái tôi” với sự tham luyến hay sân hận, như một thứ gì đó rắn chắc hữu hình; có vẻ như sở hữu các uẩn, thì đó là đối tượng bị phủ định.

Ngài khuyến nghị rằng một nhà trị liệu tâm lý có thể thấy hiệu quả khi chia sẻ kinh nghiệm của chính cô ấy hơn là kê đơn các phương pháp thực hành mượn từ Phật giáo cho bệnh nhân của cô ta. Khi được yêu cầu giải thích phương pháp dễ nhất để phát triển Bồ đề Tâm, Ngài đã đề cập đến cả phương pháp nhân quả bảy điểm và phương pháp bình đẳng hoán đổi giữa bản thân và người khác. Cuốn sách mô tả phương pháp thứ hai này một cách sống động nhất là cuốn “Nhập Bồ Tát Hạnh” của Ngài Tịch Thiên, Ngài đã trích dẫn những câu sau từ tác phẩm ấy:

"Những niềm hỷ lạc trên thế gian này
Đều xuất phát từ lòng khát khao mang lại niềm vui cho người khác
Và những nỗi khổ đau trên cõi đời này,
Đều đến từ lòng ích kỷ mong cầu hạnh phúc của riêng ta." 
(8/129)

"Cần gì phải nói nhiều?
Hãy xem sự khác biệt
Giữa hai người ngu - trí
Kẻ ngu sống ích kỷ
lợi lạc riêng mình
Bậc trí luôn phụng sự
phúc lợi tha nhân."
 (8/130)

Cũng chính cuốn sách này khuyến khích chúng ta đánh giá lại cách mà chúng ta nhìn nhận kẻ đã tìm cách làm hại chúng ta. Mặc dù họ tỏ ra thù địch với mong muốn làm hại ta, nhưng ta có thể coi họ là đối tượng của lòng từ bi. Bởi vì điều này làm thay đổi thái độ của chính chúng ta, cho nên ta có thể xem một ‘kẻ thù’ như vậy như một bậc thầy.

Cuối cùng, một người mẹ muốn biết làm thế nào để đưa con trai mình trở thành một Phật tử. Đức Ngài nói với cô ấy, “Thay vì con cố gắng áp đặt điều này hoặc ý tưởng nọ cho con trai của con, tốt hơn hết là con nên cung cấp cho nó những cuốn sách để nó đọc, thậm chí có thể là những cuốn sách mà tôi đã viết,” và Ngài cười, “để nó có thể tự có những kết luận của riêng mình."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12646)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14533)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38538)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14668)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14666)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14091)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14983)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16585)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29958)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16248)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15582)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14936)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14934)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17919)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15627)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38735)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26790)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39709)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50846)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38800)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35116)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18349)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16516)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42472)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39304)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35664)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17505)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46583)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17184)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28522)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19022)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17630)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17140)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17597)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16561)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16949)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30919)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16968)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18546)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18513)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17413)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18188)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17106)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23554)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17051)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17488)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17729)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17110)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15780)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18088)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17456)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17262)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29587)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27794)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18203)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16140)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15395)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23099)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14873)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55172)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant