Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 65: Không "có" cũng không "không"

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14965)
Chương 65: Không "có" cũng không "không"


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

13.

Chương 65

KHÔNG ‘CÓ’ CŨNG KHÔNG ‘KHÔNG’

Sau buổi pháp thoại này, đại đức Svastika thấy nhiều thầy có vẻ trầm ngâm, riêng đại đức thấy mình chưa nắm vững được những điều Bụt dạy. Đại đức tâm niệm sẽ cố gần gũi các vị đại đức lớn để học hỏi thêm, qua những lời luận đàm của họ.

Trong buổi pháp thoại kế tiếp, đại đức Ananda được phép đại diện các thầy đặt lên những câu hỏi để Bụt trả lời.

- Bạch Thế Tôn, thế nào là thế giới? Thế nào là vạn hữu?

- Ananda, thế giới (loka) là sự tập hợp của tất cả những gì có tính biến chuyển và tàn hoại (paloka). Vạn hữu tuy sum la nhưng tất cả đều bao hàm trong mười tám lãnh vực: đó là sáu căn, sáu trần, và sáu thức. Sáu căn, như các vị đã biết là mắt. tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và ý tưởng. Sáu thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái ý. Ngoài mười tám lãnh vực đó mà ta gọi là thập bát giới, không còn có gì nữa. Tất cả mười tám cái ấy đều có tính sinh diệtbiến hoại, cho nên tôi đã định nghĩa thế giới là sự tập hợp của tất cả những gì có tính biến chuyển và tàn hoại.

Ananda lại hỏi:

- Thế Tôn đã từng nói vạn pháp là không. Như thế nào gọi là vạn pháp không?

- Bởi vì vạn pháp không có tự thể riêng biệt cho nên gọi là vạn pháp không. Sáu căn, sáu trần cũng như sáu thức, không có pháp nào có tự thể riêng biệt.

- Thế Tôn, có lần con đã nghe Thế Tôn nói về ba cách cửa giải thoát là Không, Vô TướngVô Tác. Có lần con cũng đã nghe Thế Tôn nói vạn pháp là không, thế giới là không. Con chưa thật sự hiểu được thế nào là không. Có phải vì vạn pháp có tính biến chuyển và tàn hoại cho nên Bụt nói “vạn pháp là không" không?

- Ananda, quả thật tôi đã từng nói về không, và phép quán về không. Phép quán chiếu về không là một phép quán chiếu mầu nhiệm, có thể giúp người hành đạo vượt ra khỏi khổ ưu và sinh tử. Hôm nay tôi sẽ vì đại chúng mà nói về không quán.

Ananda, tất cả chúng ta đều đang ngồi trong giảng đường Lộc Mẫu. Chúng ta biết rằng trong giảng đường này không có chợ búa, trâu bò, làng xóm, mà chỉ có các vị khất sĩ đang ngồi nghe pháp mà thôi. Cái gì không thì ta nói là không, cái gì có thì ta phải nói là có. Trong trường của chúng ta đây, tức là trong trường hợp giảng đường Lộc Mẫu, chợ búa, làng xóm, trâu bò là không, nhưng các vị khất sĩ là có, có phải như thế không?

- Bạch Thế Tôn, đúng như vậy.

- Sau buổi giảng này, tất cả chúng ta đều sẽ đi ra khỏi giảng đường Lộc Mẫu, và trong giảng đường sẽ không có một vị khất sĩ nào. Lúc đó, giảng đường Lộc Mẫu không có chợ búa, không có làng xóm, không có trâu bò mà cũng không có các vị khất sĩ. Có phải thế không?

- Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Lúc đó trong giảng đường Lộc Mẫu không có gì hết.

- Ananda, luôn luôn nghĩa là có cái gì, không luôn luôn nghĩa là không cái gì. Tiếng và tiếng không tự chúng không có nghĩa gì cả.

Xin Thế Tôn giải rõ cho chúng con.

- Này nhé: không bao giờ cũng là không một cái gì, ví dụ không chợ búa, không trâu bò, không làng xóm, không có các vị khất sĩ. Ta không thể nói không một cách suông cụt được. cũng thế. Có bao giờ cũng là có một cái gì, như có chợ búa, có trâu bò, có làng xóm, có các vị khất sĩ. Ta không thể nói một cách suông cụt được. Vào giờ phút hiện tại, các vị có thể nói là trong Lộc Mẫu Đường không chợ búa, không trâu bò, không xóm làng, nhưng có các vị khất sĩ. Đó là trường hợp Lộc Mẫu Đường, còn trong trường hợp vạn pháp thì sao? Nếu ta nói vạn pháp , thì vạn pháp có cái gì? Nếu ta nói vạn pháp không thì vạn pháp không cái gì?

Này các vị khất sĩ, cái mà tôi gọi là không trong vạn pháp đó là cái ngã, nghĩa là cái tính chất thường tại và bất biến. Vạn pháp không nghĩa là vạn pháp không có ngã, nghĩa là không có tính chất thường tại và bất biến. Nghĩa căn bản của không là như thế. Các vị đã chấp nhận và đã biết rằng vạn pháp đều có tính biến chuyểnhoại diệt. Chính vì vạn pháptính cách biến chuyểnhoại diệt cho nên vạn pháp không có ngã, không hàm chứa một cái ngã. Vì vô thường cho nên vạn pháp cũng là vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã trong tự thân, cho nên vạn pháp được gọi là không ... Này quý vị, khôngkhông có tự ngã. có nghĩa là

Này các vị khất sĩ! Trong năm uẩn không có uẩn nào có tính cách thường tại bất biến cả. Cả năm yếu tố hình hài, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức đều không có tự ngã, đều không có tính cách thường tại bất biến. Tính cách thường tại bất biến ấy thường được gọi là cái ta. Đã không có ta thì làm gì có cái của ta? Đã không có ngã thì làm gì có ngã sở? Quán chiếu để thấy được sự không có mặt của cái ta và cái của ta trong vạn pháp tức là quán chiếu về không vậy.

Ananda hỏi:

- Vạn pháp không có ngã, đó là điều mà chúng con đã hiểu và đã thấy, nhưng bạch Thế Tôn, có vạn pháp không?

Bụt im lặng nhìn xuống phía trước mặt người.

Trước mặt Bụt có một chiếc bàn nhỏ, trên bàn có đặt một cái bát đầy nước trong để Bụt giải khát, chỉ vào bát nước trên bàn, Bụt hỏi đại đức Ananda:

- Ananda, theo thầy thì cái bát này là bát không hay bát đầy?

- Bạch Thế Tôn, cái bát này không phải là bát không, nó là một cái bát đựng đầy nước trong.

- Ananda, thầy hãy cầm cái bát nước đầy này lên và đem đổ hết nước trong bát ra phía ngoài Lộc Mẫu Đường.

Đại đức Ananda làm theo lời Bụt dạy. Khi trở vào đại đức đặt chiếc bát không lên bàn.

Cầm chiếc bát lên và úp miệng về phía dưới, Bụt hỏi:

- Ananda, cái bát này bây giờ đây là bát không hay bát đầy?

- Bạch Thế Tôn, cái bát này bây giờ đây không phải là cái bát đầy nước nữa, mà là một cái bát không.

- Ananda, thầy có chắc là cái bát này là cái bát không không?

- Bạch Thế Tôn, con chắc chắn cái bát này là cái bát không.

- Ananda, trong cái bát này không có nước nhưng lại có đầy không khí. Cái bát chỉ không có nước thôi, chứ cái bát đang đầy không khí. Thầy đã quên rồi. Không luôn luôn nghĩa là không một cái gì, có luôn luôn nghĩa là có một cái gì. Trong trường hợp này, thầy phải nói: cái bát không có nước, nhưng đầy không khí. 

- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu.

- Vậy thì này Ananda, cái bát có thể là một cái bát không mà cũng có thể là một cái bát đầy. Cái không hay cái đầy ấy tùy thuộc vào sự có mặt của cái bát. Nếu không có cái bát thì làm gì có cái không hay cái đầy. Vậy nếu muốn không hay muốn đầy thì phải có cái bát đã. Như giảng đường Lộc Mẫu mà trong đó chúng ta đang ngồi đây. Giảng đườngthể không hay đầy, nhưng muốn không hay đầy thì phải có giảng đường trước đã.

Đại chúng “ồ” lên một tiếng.

Đại đức Ananda chắp tay:

- Bạch Thế Tôn, như vậy là có vạn pháp, và vạn pháp có thật.

Bụt mỉm cười:

- Ananda! Thầy đừng nên bị từ ngữ khống chế như thế. Nếu vạn pháp có mặt như những hiện tượng không có ngã thì cái có đó không phải là cái có của tri giác thông thường. Cái có ấy cùng với cái không kia là một.

Ananda lại chắp tay:

- Xin Bụt khai thị cho chúng con.

- Này Ananda, chúng ta vừa nói đến cái bát không và cái bát đầy. Chúng ta cũng vừa nói đến giảng đường không và giảng đường đầy. Tôi đã nói sơ lược về không, bây giờ tôi sẽ nói sơ lược về có.

Cái bát trên bàn kia tuy là cái bát không còn nước, nhưng nếu đại chúng nhìn thật kỹ thì không phải như vậy.

Nâng cái bát lên, Bụt nhìn Ananda:

- Ananda, trong những yếu tố nhân duyên đã đưa tới sự có mặt của cái bát này, có yếu tố nước không?

- Bạch Thế Tôn, có. Nếu không có nước trộn vào đất sét thì người thợ gốm không thể nào biến đất sét thành cái bát.

- Đúng rồi, Ananda! Nhìn kỹ vào cái bát ta thấy có nước ở trong đó, dù trong giờ phút hiện tại, nó là một cái bát không có nước. Sự có mặt của cái bát chứng minh được sự có mặt của nước. Ananda! Thầy có thấy yếu tố lửa trong cái bát này không?

- Bạch Thế Tôn, con có thấy. Nếu không có lửa thì đất trộn với nước không thể nào đưa tới sự có mặt của cái bát. Nhìn sâu vào cái bát con thấy sự có mặt của hơi nóng của lửa.

Nhìn sâu vào cái bát thấy gì nữa?

- Con thấy không khí. Nếu không có không khí thì lửa không cháy được và người thợ gốm cũng không sống được. Con thấy người thợ gốm. Con thấy bàn tay khéo léo của người thợ gốm. Con thấy tâm thức của người thợ gốm. Con thấy lò gốm. Con thấy tâm thức của người thợ gốm. Con thấy lò gốm. Con thấy củi chất trong lò. Con thấy rừng cây đã làm ra củi. Con thấy mưa, nắng, đại địa đã làm cho rừng cây mọc lên tươi tốt ... Bạch Thế Tôn, con thấy muôn ngàn yếu tố nhân duyên đã cùng nhau hợp lại để đưa tới sự có mặt của cái bát này.

- Hay lắm, Ananda! Thầy đã thấy được sự có mặt của những yếu tố nhân duyên, đã đưa tới sự có mặt của cái bát khi quán sát về cái bàn. Ananda! Những yếu tố ấy cũng có mặt đồng thời với cái bát và trong cát. Trong những yếu tố ấy, có yếu tố tâm thức của thầy. Ananda! Nếu từ trong cái bát này mà thầy lấy hơi nóng để trả về cho mặt trời, lấy đất sét trả về cho đại địa, lấy nước trả về cho dòng sông, lấy bàn tay người thợ gốm trả về cho cha mẹ người ấy, lấy than củi trả về cho rừng cây ... thì cái bát sẽ còn có mặt không? Cái bát sẽ đi về đâu?

- Bạch Thế Tôn, cái bát sẽ không còn có mặt, bởi vì những nhân duyên tạo nên cái bát đã trở về với vị trí nguyên thỉ của chúng. Cái bát sẽ trở về với những yếu tố nhân duyên ấy.

- Ananda! Nếu thầy đã quán chiếu chín chắn về đạo lý nhân duyên, chắc chắn thầy đã thấy rằng cái bát không thể tự riêng mình mà có mặt được. Cái bát chỉ có thể có mặt trong liên hệ nhân duyên với tất cả các pháp. Các pháp nương nhau mà sinh khởi, có mặt và hoại diệt. Sự có mặt của một pháp kéo theo sự có mặt của tất cả các pháp. Sự có mặt của các pháp có thể được chứng minh nhờ sự có mặt của một pháp. Ananda, đó là nguyên lý tương nhậptương tức.

Ananda! Tương nhập nghĩa là trong cái này có cái kia và trong cái kia có cái này. Ví dụ nhìn vào cái bát ta có thể thấy người thợ gốm, nhìn người thợ gốm ta có thể thấy cái bát. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia, cái kia là cái này. Ví dụ sóng là nước, nước là sóng. Ananda, hiện Lộc Mẫu Đường không có chợ búa, trâu bò, và làng xóm nhưng kỳ thực nếu không có chợ búa, trâu bò và làng xóm, đó chỉ là một cách nói, một lối nhận thức. Sự thực thì nếu không có chợ búa, trâu bò và làng xóm thì chúng ta sẽ không bao giờ có Lộc Mẫu Đường. Nếu khônggiáo đoàn của các vị khất sĩ thì cũng sẽ không có Lộc Mẫu Đường. Vì vậy cho nên, Ananda khi nhìn giảng đường Lộc Mẫu vào lúc giảng đường trống vắng, ta cũng phải thấy có sự có mặt của chợ búa, trâu bò, xóm làng, và các vị khất sĩ trong đó. Không có cái này thì không có cái kia, và ý nghĩa căn bản của không (sunna) là: cái này có thì cái kia có.

Nói tới đây Bụt im lặng. Giảng đường Lộc Mẫu im phăng phắc. Những lời Bụt nói đã gây ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người nghe.

Một lát sau, Bụt nâng cái bát không lên, nói với đại chúng:

- Các vị khất sĩ! Cái bát này tự nó một mình nó không thể có mặt được. Nó chỉ có thể có mặt đồng thời với tất cả những cái khác mà ta không gọi là bát, như đất, nước, lửa, không khí, người thợ gốm ... Tất cả các pháp trên thế gian, pháp nào cũng thế. Pháp nào cũng có mặt trên liên hệ nhân duyên trên nguyên tắc tương tứctương nhập.

Các vị khất sĩ! Nhìn vào cái bát này ta thấy được tất cả vũ trụ vạn hữu. Vậy ta có thể nói cái bát này chứa đầy cả vũ trụ vạn hữu. Chỉ có một cái không có mặt trong cái bát này thôi. Đó là tự ngã riêng biệt của cái bát.

Tự ngã là gì? Tự ngã là tự mình có mặt, không cần đến một yếu tố nào khác. Trên thế gian không có pháp nào có thể tự mình có mặt mà không cần đến bất cứ một yếu tố nào khác, vì vậy cho nên không có một pháp nào có tự ngã. Đó là ý nghĩa căn bản của không. Không nghĩa là không có tự ngã.

Các vị khất sĩ! Năm uẩn là năm yếu tố của sinh mạng. Hình sắc không có tự ngã, vì hình sắc không thể tự mình có mặt một cách riêng biệt. Trong hình sắccảm thọ, có tri giác, có tâm tư và có nhận thức. Cảm thọ cũng vậy. Cảm thọ cũng không có tự ngã, bởi vì cảm thọ không thể tự mình có mặt một cách riêng biệt. Trong cảm thọhình sắc, có tri giác, có tâm tư và có nhận thức. Điều này cũng được áp dụng cho các uẩn khác là tri giác, tâm tư và nhận thức. Trong năm uẩn, không có uẩn nào có tự tính riêng biệt. Năm uẩn nương vào nhau mà thành lập. Vì vậy năm uẩn là không.

Các vị khất sĩ! Sáu căn, sáu trần và sáu thức là không. Mỗi nhân duyên phải nương vào các nhân duyên khác mà được thành lập, không nhân duyên nào có tự tính riêng biệt.

Các vị khất sĩ Tôi muốn nhắc lại để quý vị cùng nhớ: cái này có cho nên cái kia có. Các pháp vì nương vào nhau mà có mặt cho nên các pháp được gọi là không. Không ở đây nghĩa là không có tự ngã, không có một sự hiện hữu riêng biệt và độc lập.

Đại đức Ananda bạch:

- Thế Tôn, có những nhà trí thức Bà la môn nói rằng: “Sa môn Gotama chủ trương thuyết hư vô đoạn diệt. Sa môn Gotama dẫn dắt người ta tới sự tiêu diệt mọi hình thức của sự sống”. Thế Tôn, có phải vì Thế Tôn nói vạn pháp không cho nên người hiểu lầm như thế hay chăng?

Bụt nói:

- Ananda, những nhà trí thức Bà la môn kia, những vị lãnh đạo giáo phái kia không nói đúng sự thật. Tôi không không bao giờ chủ trương thuyết hư vô, thuyết hoại diệt. Tôi không chủ trương dẫn dắt đến sự hoại diệt mọi hình thức của sự sống.

Ananda! Trong só các tà kiến có hai tà kiến mà nhiều người đã vướng phải: đó là chấp cóchấp không. Chấp cónhận thức vạn sự vạn vật như những gì thường tại và có tự thể riêng biệt. Chấp khôngnhận thức vạn sự vạn vật như một màn ảo thuật của thần linh. Kẹt vào tà kiến nào trong hai tà kiến ấy cũng không có cơ hội thấy được sự thật.

Ananda! Có lần khất sĩ Kaccayana hỏi tôi: Thế Tôn, thế nào là chánh kiến, thế nào là cái thấy chân thực? Tôi đã trả lời: Kaccayana, chánh kiến là thứ nhận thức vượt thoát hai luận chấp có và không. Khi ta đã thấy được tự tính chân thực của thực tại rồi thì ta không con bị ràng buộc bởi hai tà kiến ấy nữa. Người có chánh kiến thấy được quá trình phát sinh và hoại diệt của các pháp và vì vậy không bị lay chuyển bởi các ý niệm có và không. Khi khổ đau phát sinh, người có chánh kiến biết là khổ đau đang phát sinh. Khi khổ đau tàn họai, người có chánh kiến biết kà khổ đau đang tàn hoại. Sự phát sinh và tàn hoại của vạn pháp không lay chuyển được người có chánh kiến. Chấp có là một thái cực, chấp không cũng là một thái cực khác. Nhận thức duyên sinh vượt ra ngoài hai thái cực đó và an trútrung đạo.

Ananda! Có và không thực ra chỉ là những ý niệm không phù hợp với thực tại. Thực tại vượt ra ngoài khuôn khổ của những ý niệm ấy. Kẻ giác ngộ là người đã vượt thoát ý niệm có và không.

Ananda! Không những có và không đều không, mà sinh và diệt cũng là không. Sinh và diệt cũng chỉ là những ý niệm. Sinh diệt cũng là không.

Đại đức Ananda hỏi:

- Bạch đức Thế Tôn, nếu sinh diệt là không thì tại sao Thế Tôn nói “vạn pháp vô thường, luôn luôn sinh diệt?”

- Ananda, Đứng về tục đế ta có thể nói vạn pháp có sinh và có diệt, nhưng đứng về đệ nhất nghĩa đế, ta cần thấy được tính cách bất sinhbất diệt của vạn pháp.

- Xin Thế Tôn chỉ dạy thêm cho chúng con.

- Này Ananda! Cây bồ đề mà thầy trồng ở trước Lộc Mẫu Đường, cây bồ đề ấy đã được sinh ra từ lúc nào?

- Bạch đức Thế Tôn, cây bồ đề ấy sinh ra từ bốn năm nay, vào giờ phút mà hạt bồ đề bắt đầu nứt mầm trong đất.

- Ananda! Vậy trước khi cây bồ đề ấy sinh ra, nó đã có chưa?

- Thế Tôn, trước khi nó sinh ra, cây bồ đề chưa có.

- Vậy thì cây bồ đề có thể từ khôngtrở thành có hay sao? Thầy đã thấy một pháp nào từ khôngtrở thành có hay chưa?

Đại đức Ananda im lặng.

Bụt nói:
- Ananda, trong vũ trụ không có một pháp nào đã từ không mà trở nên có. Nếu khônghạt giống bồ đề thì không thể có cây bồ đề. Cây bồ đề là từ hạt bồ đề mà có. Cây bồ đề chỉ là sự tiếp nối của hạt bồ đề. Trước khi hạt bồ đề nứt mầm, cây bồ đề đã có sẵn trong hạt bồ đề. Một pháp đã có sẵn thì cần gì sinh ra nữa? Vì vậy cho nên cây bồ đềtính cách bất sinh.

Bụt lại hỏi Ananda:

- Ananda, sau khi hạt bồ đề nảy mầm thành cây bồ đề, hạt bồ đề có diệt không?

- Bạch Thế Tôn, hạt bồ đề có diệt thì cây bồ đề mới sinh ra được.

- Ananda, hạt bồ đề không diệt. Diệt tức là từ có mà trở thành không. Thầy có thấy trong vũ trụ này có một pháp nào từ có mà trở thành không được không? Một chiếc lá, một hạt bụi, một làn hương cũng không thể từ có mà trở thành không được. Các pháp ấy chỉ có thể biến chuyển để trở thành những pháp khác. Hạt bồ đề cũng thế, hạt bồ đề không diệt mà chỉ biến chuyển thành cây bồ đề. Hạt bồ đề cũng như cây bồ đề đều là những pháp bất sinhbất diệt. Ananda! Không những hạt bồ đềcây bồ đề là những pháp bất sinh bất diệt mà tất cả các pháp trong đó có tôi, có thầy, có các vị khất sĩ, có Lộc Mẫu Đường, có chiếc lá, có hạt bụi, có làn hương, tất cả đều bất sinh diệt.

Ananda! Tất cả các pháp đều bất sinhbất sinh; sinh và diệt chỉ là những ý niệm của nhận thức mà thôi. Các pháp không có, không không, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, không tới, không đi, không một, không nhiều. Tất cả các ý niệm có không, sinh diệt, dơ sạch, thêm bớt, tới đi, một nhiều ... đều là những ý niệm phân biệt. Nhờ quán chiếu về tự tính không của các pháp, các vị có thể vượt thoát những ý niệm phân biệt ấy để chứng nhập được thực tại của vạn hữu.

Ananda! Thực tại của vạn hữu là không có cũng không không, không sinh cũng không diệt, không thành cũng không hoại. Nếu khôngthực tại ấy làm cơ bản thì làm gì có cái thế giới có sinh có diệt, có có, có không, có thành có hoại của nhận thức phân biệt? Nếu khôngthực tại ấy thì thì làm gì có lối thoát cho thế giới sinh diệt, có không và thành hoại?

Ananda! Có khi nào đứng trên bờ biển thầy nhìn ngắm những đợt sóng nhấp nhô sinh diệt trên mặt đại dương không? Thực tại bất sinh bất diệt có thể đem so sánh với nước trong đại dương, và thế giới sinh diệt có thể được đem so sánh với nước trong đại dương, và thế giới sinh diệt có thể được đem so sánh với những đợt sóng lô nhô trên mặt biển. Ananda! Sóng thì có cao có thấp, có lớn, có bé, có sinh có diệt, nhưng nước trong đại dương thì không cao không thấp, không lớn không bé, không sinh không diệt. Nếu không có nước thì làm sao có sóng? Và sóng đi về đâu nếu khôngtrở về với nước?

Ananda! Sóng là nước, nước là sóng. Sóng tuy có sinh có diệt, nhưng một khi sóng nhận biết được rằng mình chính là nước thì tự khắc sóng vượt thoát được sinh diệt và không còn sợ hãi, âu lo và khổ đau vì sinh diệt.

Các vị khất sĩ! Phép quán chiếu về tự tính không của vạn pháp là một phép quán chiếu mầu nhiệm có thể đưa các vị vượt thoát sợ hãi, vượt thoát lo lắng, vượt thoát khổ đau. Phép quán chiếu này có thể đưa quý vị vượt thoát thế giới của sinh tử. Các vị hãy nổ lực mà thực tập phép quán chiếu này.

Nói tới đây Bụt lặng im. Người đã chấm dứt pháp thoại.

Buổi pháp thoại hôm nay làm xôn xao cả đại chúng. Đại đức Svastika chưa bao giờ được nghe Bụt nói những điều sâu sắc và mầu nhiệm như hôm nay. Đại đức thấy các thầy lớn thầy nào nét mặt cũng rạng rỡ. Vẻ sung sướng hiện rõ trong cái nhìn và trong nụ cười của họ. Svastika có cảm tưởng mình hiểu được những điều Bụt nói, nhưng thầy nghĩ có thể là mình chưa thấy hết được chiều sâu của buổi pháp thoại này. Thầy biết thế nào mai mốt đại đức Ananda cũng sẽ trùng tuyên lại bài thuyết pháp hôm nay và thầy sẽ có dịp học hỏi thêm qua những cuộc pháp đàm do các thầy lớn tổ chức.

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32194)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30402)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30668)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21021)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20205)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19440)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24395)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30665)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15690)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27790)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19770)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15580)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23258)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23576)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17533)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15695)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21881)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38014)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22180)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21358)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28422)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32555)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25186)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34691)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27728)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31312)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13599)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25197)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27842)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22103)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20735)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22220)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27145)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24154)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21904)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14715)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23158)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24034)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21112)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14203)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19944)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22509)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14076)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28061)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22831)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28214)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10990)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28514)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31580)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26183)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14960)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28049)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7445)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25367)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20709)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21132)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12240)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11915)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant