Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9497)
III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC
Bài II
Làng Đậu

III. Trung Đạo -- Một chìa khóa của Phát minh

Tùy theo các trường phái khác nhau trong Phật giáo, thì khái niệm Trung đạo có thể được hiểu một cách có khác nhau về chi tiết. Ta có thể hiểu về Trung đạo một cách nôm na qua hình ảnh của việc lên dây đàn. "Sợi dây đàn chùng quá hay căng quá cũng không tạo được một âm thanh trong trẻo". Đứng về mặt ý thì Trung đạo là việc phủ nhận các cực đoan cố chấp vào sự tồn tại hay không tồn tại của sự vật. Việc cố chấp này nảy sinh là do thiếu hiểu biết chính xác về bản chất duyên khởi chóng vánh của sự vật (thông thường các ý tưởng cảm nhận qua các tri giác thông thường về thế giới khiến ta dể nhìn nhận sự vật tồn tại một cách bản chất hay đôi khi ngược lai phủ nhận sự tồn tại của sự vật chỉ vì dựa trên các quan sát hay lý luận không đầy đủ).

Ở đây ý tưởng "Trung Đạo" trong Phật giáo đã được đức Dalai Lama mô phỏng thành một chính sách đề nghị cho tương lai của Tây Tạng. Đó là việc ngài chủ trương kiến tạo một vùng Tây Tạng tự trị thật sự. Ý kiến này có thể đã nảy sinh từ động lực mong muốn có một sự chung sống hòa bình hạnh phúc cho cộng đồng người Tây Tạng trong khối người Hoa khổng lồ. Chính sách đó không đi theo hướng cực tả đòi hỏi giành lại một tên nước Tây Tạng độc lập mà cũng không chấp nhận xu hướng cực hữu qua việc xóa bỏ nền văn hóa Tây Tạng với bản sắc đặc trưng Phật giáo Kim Cương thừa để trở thành một loại bản sắc Hán tộc 100%. Khối ngựời Hoa rất đông đảo và mạnh mẽ về di sản vật chấtvăn hóa trong khi khối người Tạng nhỏ bé nhưng lại rất sâu sắc, đồng nhất và hài hòa về di sản tinh thầntôn giáo ...Theo phân tích của người viết bài này, sự kết hợp khéo léo không hủy hoại các đặc tính tốt đẹp lẫn nhau của hai khối này sẽ có thể mang lại lợi ích vô cùng lớn lao cho cả hai cộng đồng. Ngoài ra, còn có thể có nhiều phân tích về các khía cạnh lợi ích khác của chính sách Trung đạo nhưng việc bàn thảo về nó sẽ vượt quá đề tài khoa học của bài viết.

Chúng ta hãy trở lại một thí dụ ứng dụng của ý kiến trung đạo. Trong kiến trúc hiện nay của các máy tính cở lớn (các máy chủ -- server) thì bộ lưu trữ (storage) ngày nay có nhiều phẩm chất tiện ích, trong đó, ba điểm nổi bật là kích cỡ rất lớn của bộ lựu trữ, khả năng tái lập dữ liệu (data redundancy) do hỏng hóc và vận tốc xử lý dữ liệu cao. 3 đặc tính này có được, ngoài khả năng tính toán cực nhanh của CPU, là còn phải nhờ vào nhiều yếu tố khác trong đó có 2 thành phần phần cứng quan trọng là ổ cứng (hard drive) và bộ nhớ đệm (cache).

1. Các ổ cứng ngày nay có được khả năng tái lập dữ liệu là do cách kết cấu theo kỹ thuật RAID6 để tạo nên các ổ nhớ logic (logical drive) là một dạng sao chép dữ liệu để phòng hờ hỏng hóc. Tuy nhiên, các ổ cứng thông thường ngày nay vẩn dùng công nghệ cơ khí cho nên vận tốc truy cập dữ liệu vẩn còn rất thấp so với vận tốc xử lý của CPU.

2. Để khắc phục phần nào sự "chênh lệch" giữa vận tốc xử lý dữ liệu và vận tốc xuất nhập (I/O -- input output) dữ liệu của các ổ logic, nhiều năm trước, người ta thiết kế ra các bộ nhớ đệm (cache)7 là một loại bộ nhớ có vận tốc lưu trữ dữ liệu rất nhanh nhằm tạm thời lưu giữ các dữ liệu trong khi các ổ logic đang bận thực thi các thao tác khác. Chính bộ nhớ đệm này đã giúp tăng được vận tốc trung bình của toàn bộ hệ thống máy tính lên đáng kể. Vì giá thành của bộ nhớ đệm này rất cao nên dung lượng của nó được trang bị trên mỗi máy tính khá khiêm nhường (từ vài trăm Mb cho đến vài Gb là tối đa; trong khi tổng dung lượng của một bộ lưu trữ ngày nay cho mỗi máy có thể lên đến trên dưới 200,000Gb hay khoảng 200Tb)

Vấn đề nảy sinh là gần đây các ổ cứng loại mới được chế tạo bằng các "memory chip" tức là các bộ nhớ điện tử (thường thấy trên các máy chụp hình số) gọi là SSD (solid state drive)8 Vận tốc của loại này nhanh hơn vận tốc của các loại ổ cứng truyền thống khoảng 10 lần nhưng so với vận tốc của bộ đệm thì SSD nhỏ hơn khoảng 12 lần. (Về giá thị trường của ba loại này cũng tương ứng như thế các bộ nhớ đệm giá khoảng gấp 10 lần SSD và, SSD giá gấp 10 lần ổ cứng thường). Đồng thời dung lượng của nó cũng chỉ khoảng 1/3 dung lượng của ổ cứng thông thường. Xem ra, nếu trang bị mới cho bộ lựu trữ hoàn toàn bằng SSD thì sẽ rất đắt tiền. Vấn đề là làm sao để nâng vận tốc lưu trữ của máy lên nhiều lần gần tương đương với máy tính được trang bị toàn bằng SSD nhưng vẩn không phải trả một giá thành cao như thế.

Nếu dựa theo tầm nhìn trung đạo thì có thể tìm cách thiết kế một hệ thống mới sao cho nó chạy với vận tốc nhanh so sánh được với vận tốc của SSD cũng như giữ nguyên các tính năng về ổ nhớ logic của nó. Dĩ nhiên, một giải pháp dể thấy là dùng SSD như là vai trò của một bộ đệm thứ cấp (level two cache) cỡ lớn. Tuy vậy nếu nhìn kỹ hơn chúng ta sẽ thấy là bộ đệm thứ cấp này dù có tốt thì cũng đã đánh mất đi một tính năng quan trọng mà các ổ cứng đều có thể được kiến trúc nên: đó là việc các ổ cứng có thể được cấu trúc để có khả năng tái lập dữ liệu trong hư hỏng (data redundancy). Như vậy việc thấy được các đặc điểm "trung đạo" của SSD thì người thiết kế có thể tạo ra một bộ đệm thứ cấp cỡ lớn nhưng lại có khả năng tái lập dữ liệu do hỏng hóc. Đồng thời một hệ thống máy tính như thế sẽ có vận tốc tăng cao gấp nhiều lần, tăng cao khả năng bảo dưỡng dữ liệu đồng thời giá cả cho kiểu máy này lại không tăng theo tỉ lệ nhỏ hơn nhiều lần. Đây cũng là mội dung liên can đến phát minh được nêu trong phần đầu của bài viết cũng như liên quan đến một world wide technical publication9 về kiến trúc một kỹ thuật lưu trữ nhằm tối ưu hóa một hệ thống máy tinh trong đó có nhiều cơ chế lưu trữ dữ liệu có các vận tốc sai biệt nhau đáng kể.

III Thay Lời Kết:

Các ứng dụng của Phật giáo vào khoa học đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đến trong nhiều thập niên gần đây. Ngoài các chia sẻ tri kiến về vật lý như cách thức tồn tại của vật chất (vật lý vi mô -- lượng tử) và của vũ trụ (vật lý vĩ mô -- vũ trụ học) thì các ứng dụng trực tiếp được thấy đặc biệt rõ nét trong các ngành y học trị liệu, tâm lý học, và thần kinh học10. Tuy vậy, ứng dụng vào các ngành khác của khoa học thì vẩn còn hiếm hoi. Loạt bài viết này chỉ nhằm một mục tiêu nhỏ cho thấy ứng dụng của Phật giáo sẽ không chỉ dừng lại ở các ngành khoa học đã nêu mà nó có thể thâm nhập vào các vị trí khác chẳng hạn nhằm giúp người nghiên cứu vượt qua các khó khăn. Các áp dụng như vậy cũng là một bước khác để kiểm chứng sự đúng đắng của giáo thuyết nhà Phật vì chỉ có thuyết lý đúng thì mới dẫn đến các hậu quả phù hợp, tin cậyáp dụng được. Dẫu sao, truy cho đến cùng thì cho dù có mang đến phúc lợi như thế nào, mụch tiêu chính của Phật giáo vẫn là nhằm mang lại giải thoát hoàn toàn cho chúng sinhđạt đến trí tuệ viên mãn. Theo các giảng huấn Phật giáo thì không có nổ lực tu tập thực nghiệm một cách kiên trìphù hợp, thì sẽ chẳng có giải thoát chẳng có trí tuệ tối thắng.

Kính chúc an lạc
Phật tử Làng Đậu 

Xem Phần I:

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Làng Đậu

 


Chú Thích:

  1. Middle Way Logical Volume . I D 200904599 . NhanVo et all. Patent Pending doc.
  2. Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế  Nguyễn Cung Thông . Huệ Quang. Truy Cập 16/07/2010
  3. Bồ Tát Hạnh. Santideva. Thích Trí Siêu dịch. Chương 5. Trang Quảng Đức. Truy Cập 16/07/2010
  4. Một số chi tiết về Duyên Khởi có thể tìm thấy trong tác phẩm "Tứ Điệu Đế" của đức Đạt-lai Lạt-ma (The Four Noble Truths. Dalai Lama. Thorsons. 1998. ISBN: 0722535503 ) Phần Mở Đầu. Duyên Khởi (bản dịch Việt: http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-3884_15-2_5-75_6-1_17-236_14-1/#nl_detail_bookmark)
  5. Theo lời của đức DLLM trong các bài giảng về "Nhập Bồ Đề Hành Luận" Truy cập tại www.dalailama.com. Xem thêm ý kiến về việc này trong bài Pratītyasamutpāda phần Madhyamaka and Pratityasamutpada . Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  6. Xem thêm về các cách thức tái lập dữ liệu khi hỏng hóc từ kỹ thuật RAID: Bài RAID Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  7. Xem thêm giải thích về chức nănghoạt động của bộ đệm: Cache. Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  8. Xem thêm: Solid-state drive Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  9. Self Optimizing for Performance -- A New Virtual Storage Device System. PD Number: 201000845. Nhan Vo et all. HP World-wide Technical Publication 2010.
Xem thêm về các nổ lực nghiên cứu ứng dụng của Phật học tại trang WEB Mind and Life: http://www.mindandlife.org/index.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7544)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7602)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6135)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9998)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7106)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7337)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6999)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9372)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5857)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7114)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6536)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6118)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7179)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14406)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20483)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9480)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7896)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8202)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7462)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9391)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7475)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7496)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7686)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9495)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8801)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7403)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7986)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7045)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7693)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9882)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8295)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8848)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7698)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8852)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8676)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8013)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9024)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9439)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8765)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8903)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7237)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9199)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8618)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7905)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9655)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10209)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8794)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8407)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7658)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9360)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7502)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7331)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8518)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12281)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7337)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11532)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8328)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8052)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7927)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant