Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố thí với tâm thành

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10706)
Bố thí với tâm thành


BỐ THÍ VỚI TÂM THÀNH


Thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng giả Tu-đạt là nhà giàu nhất nước Kiều-tát-la do vua Ba-tư-nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma-kiệt-đà, mua bán xong ông về nhà người anh rể nghỉ ngơi. Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra ngõ đón tiếp ân cần, nhưng hôm nay ông thấy không ai để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông lấy làm ngạc nhiên hỏi người anh rể, thì ra cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu-đạt thắc mắc với người anh rể:

 - Phật là gì mà mọi người tôn kính đến thế?

Người anh rể bảo rằng:

- Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-phạn và Hoàng hậu Ma-da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà ông từ bỏ ngôi vị, cung điện nguy nga, vợ đẹp, con xinh xuất gia tu hành, nay đã chứng quả Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-đạt nghe qua, bổng trong lòng cảm thấy bồn chồn muốn được gặp đức Phật ngay tức khắc, nhưng lúc này là ban đêm, trời tối đành để lại sáng mai. Vì mong mỏi gặp đức Phật nên cả đêm hôm ấy ông thổn thức trong lòng không thể nào ngủ được.

Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật tịnh dưỡng. Vừa vào tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu-đà Cấp Cô Độc, thời cơ đã đến rồi đó.” Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái tên Tu-đà của ta chỉ có người trong gia tộc ta mới biết và không ai được gọi, thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình cái tên này? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngơ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới gần ông và nói rằng:

- Ta là người mà ông muốn gặp đây.

Tu-đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy dấy lên niềm phấn khởi vô biên đến rơi nước mắt. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.

Nghe xong bài pháp, Tu-đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là được vào dòng Thánh, không còn đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sanhngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ năm điều đạo đứcphát tâm cúng dường hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin đức Phật cho xây dựng một Tịnh xá lớn để chư Tăng có chỗ tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông. 

Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp đức Phật, ông càng mở rộng lòng nhân từ.

Từ đó, ông đi tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, để xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư Tăng tu tập, hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào vừa ý ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-đà con vua Ba-tư-nặc. Biết Thái tử không bao giờ bán đất, nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ-đà bảo rằng:

- Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với điều kiện ông về đem vàng miếng trải đến đâu tôi bán đến đó.

Không ngờ, Cấp Cô Độc đồng ý, cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Trong lúc chờ người nhà chở vàng đến tiếp, ông đứng trầm tư, Thái tử Kỳ-đà đến hỏi:

- Ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?

Cấp Cô Độc trả lời:

- Thưa Thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem lấy vàng ở kho nào cho thuận lợi mà.

 Nghe vậy, Thái tử Kỳ-đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức PhậtTăng đoàn, Thái tử tuyên bố:

- Kể từ giờ phút này, đất khu vườn này thuộc về ông, ông được quyền xây dựng Tịnh xá cho chư Tăng tu tập, tôi chỉ nhận số vàng theo giá trị đất, còn rừng cây trong vườn tôi xin dâng cúng cho Tăng đoàn của đức Phật.

 Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc…Đây chính là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô ĐộcThái tử Kỳ-đà cúng dường. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp, đức Phật đã trú tại Tịnh xá này trong 25 mùa An cư kiết hạ.

Nói về Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng chí thành chí kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng cạn kiệt, như trăng sáng đến lúc tàn, như bị lũ lụt cuốn trôi, ông hết gia tài sự nghiệp, cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn sớt bớt phần ăn của mình để cúng dường chư Tăng, mặc cho đức Phật khuyên ông không nên cúng dường nữa.

“Sau cơn mưa trời lại sáng,” “hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai,” chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn mua bán trúng mùa, làm gì trúng nấy, lợi nhuận thu được nhiều vô số kể, ông có lại tài sản của cải nhiều hơn số tài sản, vàng bạc bị cuốn trôi theo dòng thác thực hành bố thí, cúng dường trước đây. Và ông tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước.

Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí. Đó là hạt nảy mầm quả giác ngộgiải thoát. Qua đó, ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng kính cẩn như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên với ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này.

Chúng ta không nghi ngại gì cả, phát tâm bố thí cúng dường là gởi tiền vào ngân hàng “Nhân quả” được bảo toàn nguyên vẹn lại được sinh lời, khi nào ta cần ngân hàng “nhân quả” này sẽ chi cấp cho ta sử dụng không để ta thiếu thốn.

Trở lại câu chuyện Thái tử Kỳ-đà và Cấp Cô Độc, khu vườn của Thái tử Kỳ-đà là nơi lý tưởng để xây dựng Tịnh xá, nhưng Thái tử Kỳ-đà giàu có đâu cần tiền, đâu cần bán đất, nên Thái tử nói thách cao như vậy để Cấp Cô Độc thối tâm, thối chí. Không ngờ Cấp Cô Độc đồng ý. Thái tử Kỳ-đà bàng hoàng sửng sốt khi thấy Cấp Cô Độc chở nhiều xe vàng đến lót gần kín đất khu vườn, làm cho Thái tử động lòng trắc ẩn, vui vẻ bán khu vườn, nhưng không nỡ nhận đủ tiền bán cả đất lẫn vườn cây, mà Thái tử chỉ nhận tiền đất còn rừng cây ông phát tâm cúng dường cho đức Phật. Đây là tịnh xá thứ hai sau khi Phật thành đạo, và thứ nhất là Trúc Lâm Tịnh Xá do vua Tần-bà-sa-la cúng dường tại thành Vương-xá.

Ngoài việc mua đất xây dựng Tịnh xá, Tu-đạt còn thường xuyên cúng dường tứ sự cho chư Tăng. Ông phát tâm cúng dường Tam Bảo không mệt mỏi, nhàm chán, ông còn luôn bố thí giúp đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng danh hiệu Cấp Cô Độc.

Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí cúng dường để chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người có niềm tin sâu vào Tam Bảo, được chứng quả bất thối chuyển, người đó dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt của mình. Cấp Cô Độc là người như vậy, cho nên từ ngày ấy cho đến bây giờ mọi người, mọi giới, mợi thành phần đẵng cấp trong xã hội ngưỡng mộ, đều quý kính Ngài.

Bố thí cúng dườngcon đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày thêm sâu sắc, gần gũi, gắn bó với nhau hơn và sự giúp đỡ, sẻ chia cùng nhau là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ngồi lại bên nhau, dùng tình thương xây dựng cuộc đời.

Bố thí cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát để từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí cúng dường mà tâm ta được an lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng gắn bó yêu thương hơn.

Trong dân gian Việt Nam thường nói “Ăn thì hết, cho thì còn.” Câu nói này nghe như ngược đời, nhưng thực tế quả thực không sai, cái gì ta tiêu xài, hưởng thụ cho riêng mình thì không còn, cho nên nói “ăn thì hết.” Còn cái gì ta đem giúp người thì đó mới là cái để dành, cho nên nói: “cho thì còn” là vậy.

Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy đủ, giàu có như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài, còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6104)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9982)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7084)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7332)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6986)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9346)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5830)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7099)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6515)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6092)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7159)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14375)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20423)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9464)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7865)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8179)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7443)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9368)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7476)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7659)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9467)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8771)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7364)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7955)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7004)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7661)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9852)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8280)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8828)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7665)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8627)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7997)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9005)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9423)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8722)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8878)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7221)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9177)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8595)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7888)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9609)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10160)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8751)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8359)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7620)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9321)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7469)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15346)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7294)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8472)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12224)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7297)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11492)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8031)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7902)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8916)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant