Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10687)
Bố thí không bị năm nhà cuốn trôi


BỐ THÍ KHÔNG BỊ NĂM NHÀ CUỐN TRÔI


Người thường xuyên thực hành bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tạo nên những nhân tốt lành sẽ hưởng được quả báo tốt, đồng thời tránh khỏi các ách nạn bị năm nhà cuốn trôi, đó là:

- Nhà lũ lụt.

- Nhà hỏa hoạn

- Nhà trộm cướp

- Nhà vua quan tịch thu

- Nhà con cái bất hiếu, phá hoại.

1- Nhà lũ lụt:

Chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt thường xảy ra trên thế gian này. Nó cướp đi tài sản, của cải vật chất của con người, có khi cả đời người làm lụng cật lực, vất vả, chắt chiu, dành dụm được số tài sản nào đó, qua một cơn thiên tai hay chiến sự là tiêu tan không còn gì cả. Thậm chí có người đến sáu, bảy mươi tuổi mới tạo được ngôi nhà, sắm soạn được một ít vật dụng, một ít của tiền để dành lo an dưỡng tuổi già. Thế mà qua một trận thiên tai, trong nháy mắt đã trở thành trắng tay.

Chúng ta thấy trên đời này có biết bao sự bất ngờ gây nên mất mát đau thương cho con ngườiLý do vì sao? Không gì khác hơn là “nhân quả.” Bởi chúng ta trong nhiều đời, nhiều kiếp đã gây tạo quá nhiều tội lỗi, ví như của cải vật chất ta tạo ra không phải bằng chính sức lực, mồ hôi và hành vi chân chánh của mình, mà ta dùng thủ đoạn để lường gạt, trộm cướp hay bóc lột người khác tạo nên. Vì vậy, đời nay tài sản của ta tuy có nhiều, nhưng phước lực không có, nên chúng không tồn tại với ta lâu dài, mà chúng đi theo các nghiệp nhân xấu của mình gây ra.

 Do đó, chúng ta cần phải biết nhân nào dẫn đến giàu có, được nhiều của cải vật chất, được hưởng đầy đủ phúc lạc thế gian mà không bị năm nhà cuốn trôi.

Chúng ta thấy ở Việt Nam, năm nào cũng bị lũ lụt, nhất là miền Trung và miền Bắc gây biết bao cảnh khổ cho con người, nhưng cùng trong tình huống, có người bị mất mát nhiều, có người mất mát ít, có người vẫn an toàn không hư hao gì cả, người bị mất của, kẻ mất mạng sống v.v…Trong sự mất mát đau thương ấy, nếu ta cứ cho là số trời đã định, không cưỡng lại được thì thật là không đúng. Chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao có sự sai biệt như thế? Có thể nói ông Trời ở đây là chỉ cho luật nhân quả đang vận hành theo chu kỳ nhân duyên tác động đến nhân xấu mà ta đã làm trong quá khứ “gieo nhân gặt quả.” Hiểu được quy luật này, chúng ta sẽ có phương pháp chuyển hóa, thay đổi được nó. Chúng ta không than trời, trách đất hay oán hận, đổ thừa cho số phận gì cả, mà chúng ta phải tạo tác những hành động thiện lành, tạo nên những nhân tốt ngay từ bây giờ, đồng thời dùng sự hiểu biết chân chánh tạo nên cơ hội cải tạo đời sống hiện tại cho được tốt hơn.

2- Nhà hỏa hoạn:

Hỏa hoạn là tai họa thường do con người gây ra, nhưng sự thiệt hại của nó cũng thật khủng khiếp, khó lường. Chúng ta thấy nhiều gia đình tiêu tan sự nghiệp hay vong mạng chỉ vì cơn phẫn nộ của ngọn lửa vô tình, cả đời làm lụng vất vả tạo nhà, tạo xe, sắm sửa các thứ vật dụng sang trọng, đắt tiền trong gia đình, nhưng chỉ trong một vài giờ hỏa hoạn là trắng tay. Có khi tai họa này do mình gây ra, có khi do sự bất cẩn của nhà hàng xóm gây ra thảm cảnh cho nhiều gia đình một lúc.

3- Nhà trộm cướp:

Gọi là nhà trộm cướp là theo cách sắp xếp cho đủ năm nhà, chứ cho chính xác thì gọi là nạn trộm cướp. Đây là tai nạn xảy ra thường xuyên với con người và nạn này là do người này gây cho người kia. Nếu quý vị nào có đọc báo thì ngày nào, đêm nào cũng có trộm cướp xảy ra nơi này, nơi khác. Từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng có xảy ra nạn này.

Nói cho rõ về trộm cướp là người làm lụng tạo ra của cải, tài sản bị người khác chiếm đoạt làm của mình. Trộm là lén lấy không cho người chủ sở hữu hay biết. Cướp là dùng sức mạnh ép buộc chủ sợ hữu phải giao nộp tài sản hay dùng vũ lực tiêu diệt chủ sở hữu để chiếm đoạt. Tuy hai cách thức trộm và cướp có khác nhau, nhưng cả hai hành vi đều có mục đích chung là chiếm đoạt của người. Hai hành động này là vi phạm luật pháp, vi phạm đạo đức làm người, trái với lẽ thường tình trong đời sống xã hội loài người, nên đều bị xã hội lên án. Mặc dầu hành vi này bị xã hội lên án gay gắt, luật pháp trừng trị không nới tay, nhưng nó vẫn cứ xảy ra.

Có người sau khi bị trộm cướp lấy đi thì tìm lại được, có người thì không. Vì sao chúng ta lại lâm vào hoàn cảnh như thế? Theo tuệ giác của Như Lai Thế Tôn, tất cả mọi trường hợp xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có gì bỗng dưng, khi không, ngẫu nhiên mà xảy ra.

Nguyên nhân thứ nhất là do lòng tham của con người vì hưởng thụ quá mức, sống lười biếng hoặc do nghiện ngập đủ thứ nên làm liều để có tiền tiêu xài.

Nguyên nhân thứ hai là người có tài sản đã gieo nhân trộm cướp, lường gạt, bóc lột, làm những điều phi pháp giành lấy của cải về mình trong đời trước hoặc đời hiện tại, quả báo ấy dẫn đến việc ngày nay bị trộm cướp.

Nguyên nhân sâu xa muốn nói ở đây là “nhân nào quả nấy.” Người trong quá khứ do tham lam đã làm nhiều điều bất thiện, gây đau khổ cho người về phương diện vật chất. Cái nhân tham lam, bất thiện ấy dẫn đến ngày nay tài sản của mình bị lòng tham của kẻ khác dòm ngó, để ý. Họ tìm cách chiếm đoạt tài sản mình bằng nhiều hình thức, tùy theo mức độ của nhân xấu mình đã gieo mà tương ưng cho cách thức và mức độ tài sản của mình bị trộm cướp.

Vì vậy, người ăn lành, ở hiền, chăm làm phước đức sẽ tránh được tai họa của nhà trộm cướp này xảy đến cho mình.

4- Nhà vua quan tịch thu:

Thời phong kiến xưa, vua chúa làm chủ trị vì thiên hạ, mọi quyền hành tập trung vào nhà vua. Vì vậy, người nào phạm tội, vua muốn xử tội thế nào là cấp dưới phải thi hành thế ấy. Theo quan niệm thời ấy, vua là Thiên tử (con trời) thay trời trị vì muôn dân. Từ đó, vua muốn làm gì thì làm, trong triều không ai dám ngăn cản. Khi xét xử quan lại hay dân chúng tham ô gian dối hay nghi ngờ làm tổn hại đến triều đình, vua đứng ra xét xử tùy theo tội mà phán, có nhiều hình phạt rất khắc nghiệt như “tru di tam tộc” (giết sạch ba họ, nội, ngoại và vợ) tru di cửu tộc (giết sạch chín họ) hay tịch thu hết sạch tài sản rồi đày đi nơi hoang vắng xa xôi tự kiếm sống… để trừ hậu hoạ. Tất cả những điều này đến với ai cũng đều do nhân quả nghiệp báo xấu từ trước mà ra. Thấu rõ chỗ này, chúng ta phải ăn ở hiền lành, làm việc phước đức mới mong thoát khỏi bị nạn này.

Ngày nay tuy không còn chế độ phong kiến do vua đứng đầu toàn quyền phán xử, nhưng luật pháp hiện hành vẫn có những điều khoản, khung hình phạt rất nghiêm, rất nặng như án tử hình, tù chung thân hay tịch biên tài sản v.v… Có người không phạm tội, nhưng do tang chứng, vật chứng không thể chối cải, thanh minh không được “tình ngay lý gian” nên phải chịu tội oan. Những trường hợp bị oan nghiệt như vậy là do quả báo nghiệp xấu người ấy đã gây tạo trong kiếp trước, nay mới hội đủ nhân duyên trổ ra.

5- Nhà con cái bất hiếu phá sản:

cha mẹ, ai cũng đều thương con cái của mình, lúc nào cũng muốn cho con được sung túc, đầy đủ, no ấm. Cha mẹ luôn luôn sẵn sàng dang tay đùm bọc, chở che con cái, thậm chí đôi lúc phải làm việc bất thiện để bảo hộ cho con.

Nhiều ông cha, bà mẹ vì muốn cho con được no đủ, nên phải làm lụng đầu tắt mặt tối ít có dịp tiếp xúc dạy dỗ con cái. Vì quá bận bịu lo kinh doanh, buôn bán, tạo ra của cải, để con cái buông lung muốn gì làm nấy, cung cấp tiền bạc không cần tìm hiểu nguyên do. Từ đó, tạo cho con cái tính ỷ lại vào cha mẹ, sự nghiệp gia đình, không lo tu thân, học hành, mặc tình ăn chơi trác táng, sa đọa, kết bè kết bạn với người xấu ác, rồi rơi vào tình trạng nghiện ngập, hút chích…

Chúng ta thấy không ít gia đình, cha mẹ làm lụng vất vả cả đời, chỉ vì thương con mà trong phút chốc bị tan nhà, nát cửa, phải chịu cảnh khổ đau, nghèo đói.

Chúng tôi biết một bà mẹ nọ có hai đứa con trai, bà tuy lớn tuổi nhưng còn nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm. Bà cặp bồ với những ông nhà giàu lớn tuổi, rồi lường gạt lấy tiền đem về cung cấp cho hai đứa con. Hai đứa con trai của bà rất ngỗ nghịch, không chịu học hành hay làm ăn gì cả, mà chỉ chờ mẹ đem tiền về tiêu xài mà thôi. Vì không công, rỗi việc, nên chúng thường giao du với đám bạn bè xấu, cuối cùng hai đứa đều sa vào con đường nghiện ngập, hút chích xì ke. Từ đó số tiền chúng cần để chi tiêu mỗi ngày một nhiều hơn. Vì thương con bà tìm đủ phương cách để lường gạt nhân tình của mình đem về chu cấp.

Đến lúc hai đứa bị công an bắt đưa vào trung tâm cai nghiện, thay vì khuyên giải con mình từ bỏ tệ nạn, bà lại lo sợ các con thiếu ma túy bị cơn nghiện hành hạ không chịu nỗi. Bà tìm môi giới, móc ngoặc với cán bộ quản lý trung tâm tiếp tế ma túy để các con sử dụng. Kết quả một đứa bị chết trong trại cai nghiện do dùng thuốc quá liều từ lượng thuốc bà chuyển vào để chúng dùng nhiều ngày. Và chỉ trong chưa đầy hai năm, bà đã phải bán hết nhà cửa, còn nợ nần nhiều người. Cuối cùng bà phải ở nhà mướn.

Vì thương con một cách mù quáng bà phải chịu cảnh tan nhà nát cửa, sống đời bần cùng, người thân không ai dám giúp vì sợ liên lụy.

Làm mẹ cha ai chẳng thương con? Nhưng chúng ta phải thương con như thế nào cho đúng cách để giúp chúng được trưởng thành. Đừng thương con theo kiểu bà mẹ ấy thì thật nguy hiểm cho con, cho mẹ, cho cả gia đìnhxã hội. Chúng ta phải dạy con cái biết giá trị của cuộc sống bằng tinh thần tự lập, không ỷ lại vào gia đình, đặc biệt cần dạy con cái biết nhận thức đúng đắn về nhân quả, nghiệp báo để tạo cho chúng cuộc sống có giá trị, ý nghĩahạnh phúc lâu dài

Để minh họa thêm cho nhà con cái bất hiếu, phá sản, chúng ta cùng nghe câu chuyện nhân gian sau đây:

Trong một làng nọ, nhà ông Nghèo và nhà ông Giàu ở gần nhau. Ông Giàu là một điền chủ khá giả nhất trong làng. Còn ông Nghèo là người làm mướn cho gia đình ông Giàu, nhưng đam mê uống rượu, đánh bài nên tháng nào ông cũng thiếu nợ ông Giàu. Vì vậy ông Nghèo làm mướn cho nhà ông Giàu quanh năm mà nợ vẫn còn. Rồi một ngày chiến tranh xảy ra, làng của hai ông chẳng may rơi vào vùng chiến sự, cả hai ông không thoát kịp nên bị mất mạng khi hai bên giao chiến ác liệt.

Sau khi chết, linh hồn hai ông đều xuống âm phủ chờ Diêm Vương xét xử. Để việc xét xử cho công bằng, Diêm Vương yêu cầu thuộc hạ cung cấp hồ sơ đầy đủ về mọi hoạt động của hai ông trên trần gian.

Ngày xét xử, Diêm Vương cho gọi hai vong hồn đến và phán rằng:

- Ta thấy trên trần gian Nghèo tuy làm lụng vất vả quanh năm, khổ nhọc thật đấy, nhưng phải tội đam mê cờ bạc và nghiện rượu nên xuống đây mà vẫn còn nợ của Giàu. Để thanh toán món nợ này, ta cho hai ngươi được đầu thai trở lại làm người trong một gia đình làm hai cha con với nhau. Vì Nghèo thiếu nợ Giàu nhiều, bây giờ ta cho Giàu làm cha của Nghèo để bắt Nghèo nuôi nấng mà trả nợ.

Nghe Diêm Vương phán vậy, Giàu không chịu, van xin Diêm Vương xét lại. Diêm chúa lại phán:

- Vậy thì ta cho ngươi đầu thai về Trần làm mẹ của Nghèo được không?

 Giàu cũng không chịu, Diêm Vương hỏi:

 - Vậy ngươi muốn như thế nào?

 Giàu trả lời một câu chắc nịch:

 - Dạ, thưa Diêm Vương, con muốn làm con của Nghèo.

Nghe vậy, Diêm Vương hỏi:

- Tại sao ngươi muốn làm con của Nghèo?

- Thưa Ngài, bởi vì làm con là sướng nhất, lúc ấy con tha hồ đòi nợ, con đòi đủ thứ, đòi nợ công khai, đỏi thứ gì Nghèo cũng phải chìu không dám trái ý...

Chúng ta thấy cha mẹ lo cho con thế nào? Có phải là nợ phải trả hay không? Lúc nhỏ thì bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cha mẹ phải lo cho con uống ăn đầy đủ, mỗi khi trái gió trở trời con đau là mẹ đứng ngồi không yên, phải thức suốt đêm lo lắng, chăm sóc không dám than phiền. Lớn lên một chút là phải lo cho ăn học, dù tốn kém bao nhiêu cha mẹ cũng nai lưng ra làm, dù nợ nần cũng cắn răng chịu đựng. Rồi lo công ăn việc làm, dựng vợ gã chồng cho nên bề gia thất, phân chia tài sản cho con … Như vậy có phải là cha mẹ trả nợ cho con không? Trả cho đến khi nào hết nợ mới thôi. Lỡ như kiếp này trả chưa hết thì kiếp sau đầu thai lại trả tiếp.

Câu chuyện trên cho ta một bài học lý thú về trả món nợ đời. Những người nợ nần với nhau kiếp này chưa thanh trả cho nhau, kiếp sau dễ làm cha mẹ con cái của nhau để đòi, để trả với nhau. Muốn đòi được món nợ tiền khiên, tốt nhất là đầu thai làm con đòi nợ. Vì cha mẹ nào cũng thương con, do tình máu mủ ruột rà luyến ái nên cha mẹ chẳng bao giờ bỏ con, chỉ có con bỏ cha mẹ mà thôi. Vì vậy, những người cùng gia đình, họ hàng thân thuộc thương yêu nhau hay gây khổ đau cho nhau đều là oan gia trái chủ của nhau cả.

Đây chỉ là một khía cạnh trong vấn đề nhân quả mà thôi, chứ thực ra được sinh ra làm người trong một gia đình với nhau phần lớn là do phước đức mà thành. Bởi vì chúng ta thấy cha mẹ nào cũng thương yêu con cái mà lo tròn bổn phận, trách nhiệm, thấy con cái mạnh khỏe, thành đạt lấy làm hạnh phúc, vả lại con cái nào cũng biết thương yêu, hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Rất ít gia đình con cái bất hiếu phá sản không biết đạo lý làm người mới rơi vào nạn nhà thứ 5 này mà thôi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7588)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7607)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6159)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 10032)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7136)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7362)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7034)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9410)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5900)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7144)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6573)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6145)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7210)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14452)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20520)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9514)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7932)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8227)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7483)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9421)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7522)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7510)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7694)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9516)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8812)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7445)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 8001)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7060)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7714)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9897)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8305)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8877)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7723)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8874)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8692)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8022)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9059)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9474)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8800)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8935)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7256)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9233)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8657)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7916)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9668)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10246)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8818)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8427)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7678)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9370)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7517)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15395)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7356)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8532)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12304)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7341)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11542)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8342)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8064)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7934)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant