Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Sự Truyền Bá Phật Pháp

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11190)
Chương 2: Sự Truyền Bá Phật Pháp

CẨM NANG CƯ SĨ
Tâm Diệu
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2008

CHƯƠNG 2

SỰ TRUYỀN BÁ PHẬT PHÁP

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TTL[10] tức hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca Niết Bàn gần hai trăm năm mươi năm, tức khoảng thế kỷ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành tôn giáo mang tính thế giới, do công của hoàng đế Asoka đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật truyền sang các nước Á Châu và lan toả ra ngoài biên cương đại lục

Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam. Và một hướng thứ ba cũng từ Bắc Ấn truyền sang Nepal vào Tây Tạng. Phật giáo truyền theo hai hướng sau này bằng ngôn ngữ Sanskrit hoặc được chuyển ngữ qua tiếng bản địa và được gọi là Phật giáo Bắc Truyền.

Mặc dù đức Bổn Sư đã không để lại sự ghi chép những giáo lý của Ngài, nhưng các vị đệ tử ưu tú của Ngài đã duy trì những lời dạy đó bằng trí nhớ và truyền miệng giáo pháp đó từ đời này qua đời khác. Những giáo lý của Đức Phật bao gồm những lời dạy trực tiếp của Ngài và các bài thuyết giảng của các vị đại đệ tử của đức Phật như các Ngài Xá Lợi Phất, A Nan Ðà, Mục Kiền Liên..v.v.. Mãi cho đến năm 83 TTL, những giáo lý của đức Phật đã được kết tập thành ba tạng kinh điển qua nhiều lần trước đây, mới được ghi chép trên lá bối tại Tích Lan lần đầu tiên. Ngày nay kinh sách Phật được ghi chép bằng kỹ thuật số vào băng từ tính, đĩa nhựa, thẻ nhớ USB flash [11] và ổ cứng máy vi tính dưới các dạng chữ viết, âm thanhhình ảnh.

Những lời dạy của đức Phật được ghi lại thành ba tạng kinh điển qua hai dạng văn cổ của xứ Ấn thời đó là Bắc Phạn (Sanskrit) và Nam Phạn (Pali): (1) Luật tạng, (2) Kinh tạng và (3) Luận tạng mà người ta thường gọi là “Tam Tạng Kinh Điển”. 

Kinh Tạng ghi lại những lời Phật dạy, bao gồm những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu tiên tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn. Kinh tạng giống như môt bộ sách thuốc, vì nội dung các bài kinh chứa đựng trong đó, do đức Phật giảng phù hợp với những hoàn cảnh sai biệtcăn cơ của nhiều người khác nhau.

Luật Tạng ghi lại những giới luật làm khuôn phép sinh hoạttu học của Tăng đoàn. Tạng nầy bao gồm các giới luậtnghi lễ cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thể thức gia nhập Tăng đoàn, truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới luật,..vv.. 

Luận Tạng, còn gọi là Vi Diệu Pháp gồm các bộ luận do các luận sư, đệ tử Phật trình bày, giải thích một cách có hệ thống và theo chiều sâu giáo lý đạo PhậtLuận Tạng chứa đựng triết lý uyên thâm nhất của giáo lý Đức Phật, và ngược lại từ những bộ Luận Tạng này, giáo lý của Đức Phật đã được làm sáng tỏ thêm ra. 

***

Qua nhiều thế kỷ với nhiều lần kết tập kinh điển, số lượng kinh sách Phật giáo có thể lên đến 84 nghìn cuốn. Các trường phái và bộ phái Phật giáo có nhiều ý kiến khác nhau nhưng cũng nhất trí đưa một số kinh sách vào trong ba tạng kinh Kinh, Luật và Luận và đều ghi rằng đó là lời của Phật nói. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh và luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng một số bộ kinh và luận có tầm quan trọng đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với bộ kinh và luận khác. Từ tôn kính một số kinh văn cho đến xem thường một vài kinh văn nào đó.

Cũng có một số người nghĩ rằng Đức Phật chỉ truyền dạy bằng tiếng Pali và cho rằng những bản kinh được ghi chép bằng ngôn ngữ khác là không đúng. Có những người khác lại tin vào ngôn ngữ Sanskrit. Cả hai ý nghĩ này đều không đúng. Một khi Phật pháp được truyền sang nước khác, được tu tập bởi các vị hành giả, thì nó vẫn được tin tưởng là giữ nguyên vẹn lời dạy bảo của Phật, nhưng rồi dần dần được làm cho thích nghi với tâm hồn dân chúng địa phương và vì vấn đề truyền thông cốt sao cho dễ hiểu. Như vậy, khó có thể tránh khỏi một sự khác biệt giữa quốc gia này và quốc gia khác, do đó chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi của Đạo Pháp khi nó di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Tuy vậy, dù cho có khác biệt, nhưng cũng không đi ra ngoài ngoài nguyên tắc mà Đức Phật dạy là Tuỳ DuyênBất Biến. Tuỳ Duyên là tuỳ theo hoàn cảnh, thời tiết nhân duyên, tuỳ theo văn hoá và tập tục địa phương mà thay đổi các phương tiện cho thích hợp. Còn Bất Biến là không có sự thay đổi đối với những yếu lý quan trọng như đặc tính từ bibình đẳng hay như giới luật của Đạo Phật, dù ở không gian hay thời gian nào. 

Mặt khác, các nhà nghiên cứu Phật học phương Tây tìm cách xác định thời điểm xuất hiện của từng bộ Kinh. Họ đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc của một số Kinh Điển Bắc Truyền, một số cho rằng các Tổ Phật giáo ở Trung Hoa sau này sáng tác ra, nhưng họ vẫn thừa nhận những giá trị thâm sâu của nó và cho rằng nó vẫn không xa lìa giáo lý ban đầu của Đức Phật. Khi dùng chữ để diễn tả các kinh loại này, họ dùng từ Sutras of doubtful authenticity tạm dịch là nghi kinh để chỉ những kinh không có nguồn gốc rõ ràng và hai từ Apocrypha và từ Spuriuos (Sutras) để chỉ những kinh được sáng tác ở Trung Hoa. Khi dùng hai chữ này, họ không có chủ ý xác định ý nghĩa xấu. Rất tiếc khi chuyển ngữ ra tiếng Việt, các nhà soạn tự điển Anh Việt, dịch ra là (kinh) ngụy tạo, giả mạo, ngụy thư, ngụy văn…, mang tính chất xấu, gỉa dối, không tốt. Có lẽ nên dịch hai chữ này là “kinh sáng tác” hay “kinh phát triển” thì đúng hơn. 

Các Tổ của Phật giáo, những đệ tử của Phật, những người biên tập kinh, là những vị đã kiến tính đạt đạo, cho nên giá trị của kinh không khác gì với những lời dạy của Đức Phật. Lấy một thí dụ điển hình là Bát Nhã Tâm Kinh, một số học giả Phật giáo và ngay cả Ngài Suzuki, khi nghiên cứu về thời gian tính của kinh này thì cho rằng Ngài Long Thọtác giả. Nhưng khi nói về giá trị của kinh này thì không một ai trong chúng ta phủ nhận giá trị tuyệt vời cao siêu và súc tích của nó. Cũng như kinh Pháp Bảo Đàn của Đức Lục Tổ Huệ Năng, mặc dầu không phải là kinh do Phật thuyết nhưng khó có ai trong truyền thống Bắc Truyền có thể phủ nhận được kinh này.

Nói chung kinh điển Phật giáo nhiều vô cùng. Riêng Trung Hoa dịch kinh điển Phật đã hơn 1000 năm, cũng không biết rõ đã dịch được mấy vạn quyển. Số kinh sách Phật đã được dịch và lưu hành, kể cả các bộ chú giải, giảng thuật của người Trung Hoa gồm hơn ba nghìn bộ, cộng tất cả là hơn mười lăm nghìn cuốn. Tuy nhiênthời gian truyền bá lâu và đi xa nên khó tránh khỏi những tư tưởng, tập tục và văn hoá bản địa lẫn lộn trong kinh sách. Vì thế trong kinh của cả hai truyền thống Nam Truyền và Bắc Truyền đều có dạy dùng Ba Pháp Ấn, Bốn Pháp Ấn hay Một Pháp Ấn để làm dấu ấn xác minh coi pháp đó có phải là do Phật thuyết không. Ấn là dấu in để ấn chứng

Ba Pháp Ấnvô thường, khổ và vô ngã là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để chứng nhận tính xác thực của chính pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy không phải lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này mà Ba Pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ kinh tạng Nam truyền đến kinh tạng Bắc truyền.

Bốn Pháp Ấnvô thường, khổ, vô ngãNiết bàn hay vô thường, khổ, vô ngã và Không (Kinh Tăng Nhất A Hàm). Niết bàn là tên gọi khác của vô ngã [12] và Không cũng là một cách nhìn khác về lý duyên khởi. Các pháp đều do điều kiện, nhân duyên tạo thành, vì thế chúng vô ngã. Do đó, có thể xem Ba Pháp Ấn vô thường, khổ và vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định chính pháp, là một định thức chuẩn mực để tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp môn tu tập của Phật giáo

Một Pháp Ấn cũng là Thật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Bắc Truyền. 

***

Nói tóm lại, dù với bất cứ kinh điển thuộc truyền thống nào, Nam Truyền cũng như Bắc truyền nếu có sự hiện diện của vô thường, khổ và vô ngã là xác định tính cách chính pháp. Nói một cách khác, vô thường, khổ và vô ngã là ba phạm trù dùng để công nhận những kinh điển nào phù hợp với những lời dạy của đức Phật, phù hợp với sự thật thì những lời dạy ấy đích thật là của trí tuệ. Do vậy chúng ta không nên đặt vấn đề ngụy kinh, nghi kinh hay chính kinh. Bất cứ kinh nào có giá trị nói lên giáo lý vô thường, khổ và vô ngã thì chúng ta xem đó là kinh Phật, và nên học lấy những tinh túy của nó thay vì đi tìm kiếm xem nguồn gốc của bản kinh. Hay khi xem một lời kinh hoặc một quyển kinh, chúng ta nên tự mình tìm hiểu nội dung của kinh, những ý nghĩa ẩn tàng trong đó và dùng trí tuệ của mình xét nghiệm xem như thế nào mà không nên khẳng định ngay rằng kinh này là sai, không phải là kinh của Phật, do vì các nhà học giả đã nói như thế. Trước khi Phật Thích Ca Niết Bàn, Ngài đã căn dặn mọi người rằng hãy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” là vậy.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32214)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30424)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30687)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21034)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20213)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19444)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24400)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30702)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15700)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27813)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19782)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15583)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23591)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17544)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15707)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21920)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38046)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22204)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23272)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21369)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28430)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25205)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34708)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22972)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27743)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31332)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13618)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25218)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27859)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20758)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22229)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27167)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21934)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24040)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21150)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14218)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22523)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14085)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28070)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28229)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11007)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28525)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31595)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26214)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14986)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28053)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7453)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25387)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21143)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12271)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant