Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Năm: Thiền Định

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7932)
Chương Năm: Thiền Định

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG NĂM
THIỀN ĐỊNH

Bấy giờ Retchung thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, những trường hợp nào đưa ngài đến việc từ giã Tổ Marpa ? Lama Marpa yêu cầu ngài ở gần Tổ một vài năm. Ngài đã ở được bao lâu ?”

Đạo sư trả lời:

Thầy đã không ở đó nhiều năm. Vài hoàn cảnh đưa thầy về viếng thăm làng cũ. Trong khi ẩn tu bình thường thầy không ngủ, nhưng một buổi sáng sớm thầy chợp ngủ và có giấc mộng như vầy: Thầy đến làng Kya Ngatsa của thầy. Ngôi nhà Bốn Cột và Tám Xà của thầy xiêu nát như tai một con lừa già. Mưa xuyên qua khắp nhà và đã làm hư hại những cuốn kinh, bộ Lâu Đài những Châu Ngọc.(1) Miếng đất của thầy, Tam Giác Phì Nhiêu lấp đầy cỏ dại. Mẹ thầy và những bà con đã chết. Em thầy bỏ đi lang thang và xin ăn. Bởi vì những bà con của gia đình thầy đã như những kẻ thù chống lại mẹ con thầy, nên từ thuở nhỏ, thầy đã xa cách mẹ và đã không gặp lại mẹ. Ý nghĩ này gây cho thầy đau khổ bao la. Thầy gọi tên mẹ và em và khóc. Thầy thức dậy và gối thầy ướt đẫm nước mắt.

Thầy trở nên nghĩ ngợi và gợi nhớ kỷ niệm về mẹ thầy. Thầy khóc nhiều và quyết định làm điều gì cần thiết để thấy lại bà. Sáng ra, thầy phá bức tường thất ẩn tu và đến gặp lama. Ngài đang ngủ. Thầy đến gần ngài, và khiêm hạ cúi mình nơi đầu giường ngài, thầy hát bài ca:

“Ôi đạo sư, đức Phật Bất Động,
Xin gởi kẻ ăn mày nghèo khó này trở về quê cũ
Trong thung lũng Kya Ngatsa
Mẹ và con, bà con thù ghét,
Chúng con đã xa cách nhau nhiều năm.
Tình thương của con không thể chịu đựng nữa chia ly.
Xin hãy để cho con thấy mẹ chỉ lần này nữa
Và con sẽ trở lại không chậm trễ.”

Thầy cầu xin như vậy. Lama tỉnh giấc. Vào lúc đó mặt trời mọc lên và qua cửa sổ những tia sáng của nó chiếu trên đầu ngài. Cùng lúc sư mẫu đi vào, mang đến bữa ăn sáng. Lama nói :

“Này con, tại sao con thình lình phá vỡ cuộc nhập thất nghiêm mật của con ? Nó có thể làm nảy sanh nhiều chướng ngại bên trong và mở cửa cho Ma.(2) Hãy trở lại và ở lại trong đơn độc.”

Một lần nữa thầy nói với ngài về giấc mộng của thầy và nài nỉ ngài:

“Ôi Đạo sư Bi Mẫn, đức Phật Bất Động,
Xin gởi kẻ ăn mày nghèo khó này trở về quê cũ.

Trong làng Kya Ngatsa của con, 
Những tài sản của con không có gì còn lại,
Tuy nhiên có nhiều điều làm con lo sợ.

Con muốn nhìn thấy căn nhà của con, Bốn Cột và Tám Xà,
Đã sụp đổ hay còn đứng vững;

Thấy có phải bây giờ mưa rơi từng giọt
Trên những kinh điển, Lâu Đài những Châu Ngọc;

Thấy có phải miếng đất tốt tươi, Tam Giác Phì Nhiêu,
Cỏ dại mọc đầy như đồng hoang cỏ dại;

Thấy có phải thân thể mẹ già
Bây giờ đang khỏe mạnh;

Thấy có phải em con, Peta Che Chở Hạnh Phúc,
Bây giờ là một kẻ hành khất lang thang;

Thấy có phải Zessay, dính dấp với con bằng mối dây nghiệp quả
Bây giờ có thể đã được gả cho ai;

Thấy có phải ông chú của con và hàng xóm, Yung Chiến Thắng,
Còn sống và đã già nua;

Thấy có phải thím con, Quỷ Cái Dữ Như Cọp
Vẫn còn sống hay đã chết rồi ;

Thấy có phải thầy tu của gia đình, Konchok Lhabušm,
Có còn sống ở nơi kia.

Nhưng trên tất cả là thấy mẹ của con
Người sinh ra con, thân thểtâm thức,
Lòng mong nhớ đối với người không thể nào chịu nổi.

Xin để cho con đi về quê hương chỉ một lần thôi,
Và con sẽ nhanh chóng trở lại với Thầy.”

Thầy cầu khẩn như vậy và lama trả lời :

“Con nói gì thế, hỡi con? Khi lần đầu tiên con đến với ta con đã nói rằng con không còn dính dáng với quê hương hay họ hàng. Bây giờ thì con muốn các thứ. Nếu con đi về làng không chắc con sẽ gặp mẹ con. Về phần những người khác, thầy e ằng họ không còn ở đó. Con đã sống vài năm trong vùng UŠ và Tsang, và nhiều năm ở đây với thầy. Nếu con muốn đi, thầy sẽ để cho con đi. Nhưng nếu con nghĩ đến việc trở lại, thì hãy biết rằng khi con đến đây xin thầy và thấy thầy đang ngủ, đó là điềm báo trước rằng chúng ta sẽ không gặp nhau lại trong đời này nữa.

“Tuy nhiên, mặt trời mọc lên trong không gian báo trước rằng con sẽ làm cho Phật pháp chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Quan trọng hơn hết, những tia sáng mặt trời chiếu vào đầu thầy nói cho biết rằng Giáo Pháp Kagyuš sẽ truyền bá rộng xa. Sư mẫu mang bữa ăn đến nghĩa là con được nuôi dưỡng bằng thực phẩm tâm linh. Bây giờ, chỉ có thầy chịu trách nhiệm để cho con đi. Này Dakmema, hãy dọn một lễ cúng đặc biệt.”

Lama sửa soạn mạn đà lasư mẫu sắp xếp đồ cúng. Lama truyền cho thầy lễ Quán Đảnh Con Đường của sự Thức Tỉnh theo khẩu truyền bí mật nhất của những dakini và cũng ban cho thầy toàn bộ giáo huấn về con đường Giác Ngộ. Những cái này chỉ được trao truyền từ một thầy đến một trò và bởi thế những người khác không thể biết. Rồi lama nói:

“Thật ra những giáo huấn này do Đạo sư Naropa ban cho thầy, ngài dặn phải trao truyền chúng lại cho con. Và đến phiên con, con phải truyền giáo pháp khẩu truyền này cho một người trong những đệ tử thân cận nhất của con, do những dakini chỉ định, và đặt y dưới sự cam kết phải duy trì dòng truyền một thầy một trò liên tục trong mười ba thế hệ. Nếu con cho những giáo huấn này để đổi lấy thực phẩm, giàu có hay chỉ để làm vui lòng người khác thì con sẽ chịu sự trừng phạt của những dakini. Hãy giữ chúng trong lòng, và tự mình thực hành. Nếu bao giờ có một đệ tử tiền định đến với con, thì dù y không có lễ vật gì để cúng dường, cũng phải kết nối nó với con bằng quán đảnhgiáo huấn để bảo toàn giáo pháp. Thử thách, điêu luyện một đệ tử, như Tổ Tilopa làm với Tổ Naropa, hay như thầy làm với con, sẽ không lợi lạc cho những tâm thức chưa phát triển. Hãy ban những giáo pháp với sự phân biệt khéo léo.

“Ở Ấn Độ hiện có chín loại khẩu truyền của chư dakini, chúng không quá chặt chẽ như sự trao truyền một người qua một người giữa thầy và trò. Những cái này thầy đã cho con bốn cái. Năm cái kia, một người nào trong dòng chúng ta sẽ đi và thỉnh cầu từ những đệ tử của Tổ Naropa. Chúng sẽ lợi lạc cho chúng sanh. Con hãy cố gắng học chúng.

“Nếu con nghĩ rằng con chưa nhận hết toàn bộ giáo pháp của thầy vì con có ít lễ vật để dâng thầy, thì hãy biết rằng thầy chẳng lưu ý gì đến lễ vật. Chính sự cúng dường lòng nhiệt thành tinh tấn đối với chứng ngộ và sự siêng năng của con mới đem lại cho thầy niềm vui. Hãy nhiệt tình và giương cao ngọn cờ của sự hoàn thiện.

“Trong những giáo huấn của bậc Tôn Kính Naropa, có sự khẩu truyền bí mật của chư dakini mà không có ai trong số những đại đệ tử khác đã nhận được. Thầy đã trao tất cả nó cho con như rót từ một bình đầy.”

Đạo sư của thầy xin bổn tôn yidam chứng giám cho những giáo pháp của ngài không sai lầm và những giáo huấn của ngài không thiếu sót. Đã thề như vậy, ngài Marpa hát :

“Con lễ lạycầu nguyện trước mặt Ngài, bậc đại bi toàn mãn.
Chiêm nghiệm cuộc đời của những Đạo sư, người ta thấy rằng
Dầu một tham muốn có thêm giáo huấn cũng là một phóng dật.
Hãy hộ trì tinh túy của giáo pháp toàn vẹn trong lòng con.

Nhiều giải thích luận bàn mà không có bản tánh tinh túy
Thì giống như nhiều cây mà không quả.
Dù chúng có tất cả hiểu biết, chúng không phải là chân lý tối hậu.
Biết tất cả chúng không phải là biết chân lý.

Nhiều minh giải chẳng đem lại lợi lạc tâm linh
Cái đem lại lợi lạc là kho tàng thiêng liêng trong tâm của chúng ta
Nếu con muốn giàu, hãy tập trung vào đó.

Pháp là phương tiện thiện xảo để hàng phục nhiễm ô.
Nếu con muốn được bảo đảm, hãy trụ trong đó.

Một tâm thức không bám luyến là Đạo Sư Mãn Nguyện.
Nếu con muốn có một đạo sư tuyệt vời, hãy tập trung vào đó.
Cuộc đời thế gian gây ra nước mắt ; hãy bỏ hết biếng lười.
Một động đá hoang vu là ngôi nhà của người cha tâm linh của con.
Một nơi chốn vắng vẻ và đơn độc là chỗ ở thiêng liêng.

Tâm thức cỡi trên tâm thức là một con ngựa không mệt mỏi.
Thân của con là một chánh điện và là một lâu đài cõi trời.
Thiền định và hành động không phóng dật là phương thuốc tốt nhất của ba cõi.
Với con, kẻ có mục tiêu thực sự là Giác Ngộ
Thầy đã ban cho giáo huấn không một chút dấu che.

Bản thân thầy, giáo huấn của thầy, và tự thân con,
Cả ba được đặt trong bàn tay con, hỡi con thương quý.
Nguyện chúng phồn vinh như lá, cành và quả,
Không hư thối, không tản mác hay héo khô.”

Ngài hát như thế. Rồi đặt hai tay lên đầu thầy, ngài nói, “Con ơi, sự ra đi của con làm trái tim thầy tan vỡ. Vô thường là dấu ấn của mọi sự duyên sanh, chúng ta chẳng thể làm gì cho chúng. Nhưng hãy ở đây ít ngày. Hãy nghiền ngẫm những giáo huấn và nếu con có vài chỗ không chắc, hãy làm sáng tỏ chúng.”

Và như vậy thầy ở lại vài ngày theo lệnh của lama và làm sáng tỏ những phần chưa rõ và nghi ngờ về giáo huấn. Rồi lama nói, “Sư mẫu, hãy sửa soạn một lễ cúng với những đồ cúng tốt nhất. Bây giờ Mila sắp ra đi và tôi phải nói lời từ biệt.”

Sư mẫu dâng một lễ cúng cho lama và yidam, những đồ cúng cho chư dakini và những thần hộ pháp, và sửa soạn một bữa tiệc cho huynh đệ nhập môn. Giữa đại chúng, lama biểu lộ thành những hình tướng Yidam Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaja và những pháp khí khác: chày kim cương và chuông, bánh xe quý báu, hoa sen, cây kiếm...; ba chữ OM, AH, HUM(3) màu trắng, đỏ và xanh, và mọi ánh sáng thấy được và không thấy được.

Rồi ngài nói, “Đây là những sự biến hóa tâm vật lý kỳ diệu. Phô diễn chúng mà không có mục đích chân thật là điều không tốt. Thầy đã biểu lộ chúng vì dịp ra đi của Milarepa.”

Đã thấy lama là một vị Phật Sống, thầy tràn đầy đại hỷ lạc. Thầy nghĩ thầy cũng phải cố gắng để thành tựu những năng lực thần diệu như thế qua thiền định của mình.

Lama hỏi thầy, “Con đã thấy và con có tin vào những biến hóa này không ?”

“Bạch thầy, con quá tràn ngập đến độ con không chỉ tin. Con nghĩ rằng con sẽ cố gắng để có thể làm như vậy qua thiền định.”

“Tốt, nếu như thế, con ơi, bây giờ con có thể ra đi. Bởi vì thầy đã thấy mọi sự là như huyễn, con hãy thực hành theo như vậy. Hãy nương náu trong đơn độc của núi cao, tuyết trắng hay những khu rừng. Trong các núi non hoang vu, có Gyalgyi Sri (Chiến Thắng Vinh Quang) vùng Latoš, nó đã được những vị thánh vĩ đại nhất của Ấn Độ ban phước. Hãy đến đó thiền định. Có Núi Tisi (Kailas)(4) đã được đức Phật nói đến với tên Ganchen (Núi Tuyết) và là cung điện của Yidam Chakrasamvara. Hãy đến đó thiền định. Có Lachi Gangra, nó là Gandavari, một trong hai mươi bốn thánh địa. Hãy đến đó thiền định. Có Riwo Palbar vùng Mangyul và Yolmo Gangra của Nepal, đó là những chỗ thiêng liêngtiên tri trong những kinh điển Đại thừa. Hãy đến đó thiền định. Có Drin Chuwar, chỗ ở của những dakini bảo vệ toàn miền. Hãy đến đó thiền định.

“Hãy thiền định bất cứ nơi hoang vắng nào khác thích hợp. Hãy giương cao ngọn cờ thiền định ở mỗi nơi.

“Kế cận nhau ở phía đông có hai đại thánh địa là Devikoti và Tsari. Nhưng chưa đến lúc khai mở chúng. Trong tương lai những con cháu tâm linh của con sẽ trụ ở đó. Nhưng chính con, trước hết hãy đi đến thiền định trong những nơi chốn thiêng liêng đã nói ở trên. Nếu con thiền định, tức là con phụng sự cho đạo sư của con, con sẽ biểu lộ lòng biết ơn của con cho cha và mẹ ; và con sẽ thành tựu những mục tiêu của tất cả chúng sanh. Nếu con không thể thiền định, thì đó sẽ chỉ là sự tăng thêm những hoạt động xấu trong suốt cuộc đời. Vì lý do ấy, hãy hiến mình cho thiền định, hoàn toàn từ khước những ràng buộc đam mê của cuộc đời này, và hãy từ bỏ những liên hệ với những người tìm kiếm lạc thú.”

Khi ngài nói những lời này, nước mắt chảy đầy trên má ngài. “Cha con chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau trong kiếp sống này. Thầy sẽ không quên con. Con chớ bao giờ quên thầy. Và như thế, hãy vui mừng rằng nơi cõi Trên, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau trong Cõi của chư Dakini.(5) Một ngày kia, trong khi thực hành một pháp nào đó, con sẽ gặp một chướng ngại. Khi đó, hãy xem cái thầy đang đưa cho con đây. Chớ có xem nó trước đó.” Và lama đưa cho thầy một cuộn giấy niêm bằng sáp.

Thầy in sâu trong lòng những lời sách tấn cuối cùng này của lama. Về sau, mỗi lời nói đó đã làm mạnh thêm lòng sùng mộ của thầy.

Cuối cùng, lama nói, “Sư mẫu, hãy sửa soạn cho Mila Kim Cương Ngọn Cờ Chiến Thắng khởi hành sáng mai. Dù là một dịp buồn, tôi cũng muốn đi với Mila một đoạn đường.” Và ngài nói với thầy, “Hãy đến đây và ngủ cạnh thầy đêm nay. Cha con ta còn được một lần trò chuyện nữa.” Và thầy ở lại với lama. Khi sư mẫu vào bà sụt sùi khóc. 

Lama nói với sư mẫu, “Dakmema, tại sao bà khóc ? Chẳng lẽ vì Mila đã có những giáo huấn của truyền thống khẩu truyền từ lama và vì anh sắp thiền định trong vùng núi non trơ trọi ? Nguyên nhân thực sự để khóc là thấy rằng tất cả chúng sanh vốn có Phật tánh, vốn là những vị Phật tiềm ẩn thế mà vẫn không biết được điều đó để uổng oan chết trong thống khổ, lầm than ; và một nguyên nhân đặc biệt để khóc là nghĩ rằng một khi chúng sanh đã đạt được điều kiện làm người, thế nhưng họ vẫn chết mà không có Pháp. Nếu bà khóc vì điều đó, thì bà sẽ khóc không bao giờ ngừng được.”

Sư mẫu trả lời, “Tất cả điều đó đều rất đúng. Nhưng thật khó cảm thấy lòng bi như thế một cách không ngừng nghỉ. Đứa con ruột của tôi, nó đã thành tựu trí huệhiểu biết về sanh tửniết bàn và nó sẽ hoàn thành mục tiêu của chính nó và của những người khác, đã cách lìa chúng ta vì cái chết. Bây giờ đứa con này, đầy tín tâm, tha thiết, trí huệđại bi, tuân theo bất cứ thứ gì nó được đòi hỏi, tuyệt đối không lỗi lầm, lại sẽ bỏ chúng ta trong khi đang còn sống. Đó là tại sao tôi không có sức để mang nỗi buồn đau này.”

Nói xong, bà còn khóc lóc nhiều hơn. Về phần thầy, thầy nghẹn thở vì nức nở. Chính lama cũng rơi nước mắt. Đạo sưđệ tử buồn khổ như nhau trong sự quyến luyến lẫn nhau và những giọt nước mắt của hai thầy trò đã làm ngưng mọi lời nói.

Bình minh của ngày tiếp theo xuất hiện. Mang theo lương thực dư dả, Đạo sư cùng với khoảng mười ba đệ tử, đi với thầy nửa ngày đường. Trong suốt thời gian đó họ đi với nỗi buồn rầu của những trái tim thương mến nhau, nói những lời đằm thắm và bày tỏ những cử chỉ thương yêu.

Rồi đến một hẻm núi từ đó trông thấy Sống Đất của Đạo, mọi người ngồi xuống và tham dự một lễ cúng. Và lama cầm tay thầy trong tay ngài, nói rằng :

“Con sắp vào UŠ và Tsang. Ở đèo Silma vùng Tsang dễ gặp bọn cướp lắm. Thầy không muốn để con đi mà không có bạn đồng hành, nhưng đã đến lúc con phải đi một mình. Bây giờ thầy cầu nguyện với lama và yidam của thầy và bảo những dakini giữ gìn con của thầy khỏi bị hại trên đường đi. Về phần con, quan trọng là con phải cẩn thận trong cuộc hành trình. Từ đây hãy đến Lama Ngokpa. Hãy đối chiếu so sánh những giáo huấn của các con để xem có khác biệt nào không. Sau đó, hãy nhanh chóng lên đường. Chớ dừng lại quá bảy ngày ở quê nhà của con, và lập tức đi vào nơi hoang vắng. Sự việc này là cho lợi lạc của chính con và cho lợi lạc của tất cả chúng sanh.”

Khi từ giã, thầy cúng dường lama Bài Ca Lên Đường đến Tsang thế này :

“Bạch Đạo Sư Phật Vajradhara, bậc Bất Động.
Lần đầu tiên con đến Tsang như một người khất thực
Lần đầu tiên con đến quê hương như một hành giả đơn thuần.

Nhờ ân sủng của cha con lama bi mẫn,
Trên đỉnh Đèo Silma vùng Tsang
Mười hai dakini của núi sẽ đến gặp con.

Con nguyện cầu Đạo sư, bậc Thế Tôn.
Con đặt sự tự tin của con nơi Tam Bảo.
Những người hộ tống con là những dakini của ba bậc của Con Đường(6)

Con đi với Bồ đề tâm như một bạn đồng hành.
Bát Bộ Thiên Long sẽ đón tiếp con.
Con không sợ gì kẻ thù đối nghịch.

Dù thế con vẫn hướng đến Thầy,
Con xin Thầy gặp lại và hướng dẫn con trong đời này và đời tới.

Xoay mọi hiểm nguy xa khỏi con.
Hộ trì cho thân, ngữ, tâm con.

Xin hãy làm cho những thệ nguyện của con thành hiện thực.
Đưa con vào thần lực của đại bi,
Làm mạnh cho con trong hiểu biết Tantra và trong việc trao truyền nó.

Ban cho con một đời sống thọ không bệnh tật.
Thầy biết rõ số phận kẻ ăn mày này,
Xin ban phước có con có sức mạnh
Để sống trong hoang vắng núi non.”

Thầy cầu nguyện như thế và lama trả lời, “Con ơi, sự việc sẽ như thế. Hãy giữ trong trí nhớ của con những lời cuối cùng từ lòng người cha già của con. Chớ có quên chúng.”

Rồi đặt tay lên đầu thầy, ngài hát bài ca này :

“Kính lễ chư Lama Tôn Quý,
Nguyện cho đứa con phước đức của con, người cầu Pháp, chứng đạt Pháp Thân.

Qua âm thanh im lặng bất hoại của thần chú với vị cam lồ của nó,
Nguyện cho con chứng đạt Báo thân.

Nguyện cho cây Bồ đề tâm của con, với rễ cắm sâu trong tỉnh giác giữa đời,
Được bao phủ bằng muôn ngàn lá của Hóa thân.

Mong rằng những lời kim cương của lama của con
Sống trong lòng con, không bao giờ quên mất.

Nguyện sự ban phước của chư Yidam và dakini
Thâm nhập tận những gốc rễ của đời con.

Nguyện những thần thủ hộ của đạo pháp
Không ngừng trông coi cho con.

Nguyện lời cầu nguyện sâu xa và phước lành này
Được nhanh chóng trở thành hiện thực

Nguyện lòng bi mẫn của tất cả hành giả
Nâng đỡ con trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Trên Đèo Silma vùng Tsang
Mười hai thiên nữ(7) sẽ đến gặp gỡ con.

Ngày mai trên đường đi của con,
Chư daka và dakini sẽ thúc dục khuyến khích con.

Trong đất đai nhà cửa yêu dấu của quê hương con
Là guru của huyễn hóa vô thường.

Trong thím con, em con, và bà con
Con có một đạo sư làm tan biến huyễn mộng.

Trong hang động hoang vu
Con có một ngôi chợ rộng mở nơi con có thể đổi sanh tử lấy niết bàn.

Trong tu viện của tâm thân con
Con có một ngôi chùa nơi tất cả chư Phật hợp nhất.

Từ những đồ cúng dường bằng thực phẩm tươi
Con sẽ làm thành cam lồ khiến chư dakini hài lòng.

Bằng cách cầm cương những trung tâm năng lực
Con sẽ gặt hái quả quý báu.

Trong thôn làng nơi người ta ít thương yêu con
Con sẽ thực hành đức hạnh không xao lãng.

Trong ẩn cư nghiêm nhặt, không có người hay chó,
Con sẽ có ngọn đuốc để nhanh chóng thấy những dấu hiệu tu hành.

Trong tự do có được thực phẩm mà không phải khất thực
Là sự ban phước của chân tâm cho một tấm lòng bình an.

Trong cung điện pha lê của xứ sở không nhiễm ô
Con sẽ làm chứng cho chiến thắng của riêng mình.

Trong sự thực hành toàn tâm Pháp tối thượng
Con sẽ thành tựu mối ràng buộc tâm linh thanh tịnh.

Trong sự thực hiện những giáo huấn của thầy
Con sẽ có kho tàng của Giác Ngộ.

Trong những giáo lý thiêng liêng là trái tim sống của những dakini
Con sẽ tìm ra biên giới giữa sanh tửniết bàn.

Đối với những đệ tử của Marpa Dịch Giả,
Sẽ có nhiều đại lộ vinh quang.

Qua tấm lòng kiên trì của Milarepa
Trụ cột của Phật pháp sẽ sừng sững lâu dài.
Nguyện cho con bảo vệ được trụ cột của Pháp
Được gia hộ bởi dòng cao quý.
Nguyện cho con được những đạo sư Kagyuš ban phước.
Nguyện cho con được những yidam tuyệt vời ban phước.
Nguyện cho con được ban phước bởi Havajra, Chakrasamvara và Guhyasamaja.
Nguyện cho con được ban phước bởi Pháp thiêng liêng.
Nguyện cho con được chư dakini ban phước.
Nguyện cho con được chư dakini của ba giai đoạn của Con Đường ban phước.
Nguyện cho con được chư thần bảo vệ ban phước.
Nguyện cho con được dakini Dusolma(8) ban phước.
Nguyện cho con được ban phước bởi những môn đồ tốt lành.
Nguyện cho con hoàn thành những lời dạy của lama của con.
Nguyện những đệ tử tương lai trong tất cả mọi đời được ban phước.
Nguyện tất cả những ban phước này được thường hằng không biến đổi.”

“Con hãy giữ những lời này trong trí nhớ của con và thực hành không quên mất.” Nói thế, lama rất vui vẻ. Sau đó sư mẫu cho thầy nhiều lương thực dồi dào, áo quần và những đôi giày mới. Rồi bà nói :

“Con ơi, như một sự từ giã của thế gian, những vật này mẹ cho con chỉ là những đồ vật chất. Bởi vì đây là lúc chấm dứt sự sum họp của chúng ta như mẹ và con trong đời này, mẹ mong sự ra đi của con được vui vẻ tốt đẹp. Mẹ cầu nguyện rằng nơi cõi Trên chúng ta sẽ tái ngộ với nhau trong cõi Urgyen của chư dakini. Như một sự từ giã tâm linh, mẹ mong con chớ quên những lời này phát từ tấm lòng của người mẹ của con.”

Sư mẫu cho thầy một kapala và một bình đầy rượu cúng, và hát bài ca này :

“Tôi lễ lạy dưới chân Marpa vô cùng tử tế.
Con tôi, có thần lực kiên trìchịu đựng,
Người dịu dàng kiên định trong tình thương,
Hỡi đứa con phước đức nhất của ta,
Hãy uống trọn cam lồ của lama, một thứ rượu trí huệ toàn hảo,
Cho sự thỏa mãn sâu thẳm nhất của con,
Và rồi ra đi.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Không quên chúng ta, cha conmẹ con,
Hãy kêu cầu chúng ta không dứt trong khi cùng kiệt.
Hãy ra đi sau khi hưởng thọ những giáo pháp nuôi dưỡng tấm lòng.
Hãy ăn trọn phần con và dung hóa chúng.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Không quên cha mẹ bi mẫn của con,
Nhớ lòng tốt của họ và hãy kiên trì trong thiền định.
Hãy mặc cái áo choàng hơi thở sâu kín của những dakini,
Hãy để nó sưởi ấm con trong cuộc hành trình.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau

Không quên những chúng sanh vô vọng,
Hãy để tâm con an lập trong con đường của tánh Giác viên minh.
Hãy phát sanh thôi thúc đưa đến sự giải phóng cho tất cả
Và hãy vác mang gánh nặng của Pháp
Với một sức mạnh vĩ đại khi con lên đường.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau

Con ơi, mẹ Dakmema phước đức,
Đang nói với con từ trái tim của mẹ.
Hãy giữ những lời của mẹ trong tim con và chớ quên chúng.
Mẹ của con sẽ nhớ đến con.
Mẹ và con, tâm và lòng hòa hợp,
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Mong lời cầu nguyện của mẹ được hoàn thành.
Mong con đền đáp lòng tốt của lama của con bằng sự thực hành Phật pháp.”

Nói thế, sư mẫu rơi nhiều nước mắt. Và mọi người có mặt đều khóc và buồn rầu. Về phần thầy, thầy lạy trước cha và mẹ, chạm đầu thầy vào chân các ngài. Thầy cầu xin sự ban phước của các ngài. Thầy đi thụt lùi mặt hướng về hai ngài cho đến khi không còn thấy mặt bổn sư nữa. Mọi người có mặt đều khóc trông theo thầy. Thầy miễn cưỡng bước. Cuối cùng, lama và mẹ xa khỏi tầm mắt, thầy bắt đầu lên đường và sau khi qua một thung lũng nhỏ, thầy quay nhìn lại. Lama và những người đi theo vẫn còn nguyên chỗ cũ, chỉ còn là một khối màu nâu ở xa xa. Thầy tự nhủ hay là trở lại. Rồi thầy nghĩ, “Ta đã có được trọn bộ giáo huấn. Ta sẽ không bao giờ làm cái gì dính dáng đến công việc phàm thế nữa. Ta sẽ không bao giờ cách lìa lama của ta, chừng nào ta có thể quán tưởng ngài trên đỉnh đầu của ta trong thiền định. Thậm chí ta có được lời hứa rằng chúng ta sẽ gặp lại trong Tịnh Độ của Phật. Một khi mình đã thấy bà mẹ sinh ra mình, trọn vẹn thân tâm, bấy giờ mình sẽ quay về với lama.”

Ý nghĩ này chấm dứt nỗi buồn của thầy và thầy cất bước lại. Thầy đến nhà Lama Ngokpa. Hai huynh đệ so sánh những giáo huấn của hai người. Trong sự giải thích Tantra, ông hơn thầy. Trong thực hành cụ thể, thầy không thua ông lắm, nhưng trong giáo huấn bí mật của dakini thì thầy vượt ông.

Sau khi làm lễ từ giã, thầy đi về làng. Thầy đến đó chỉ mất ba ngày.(9) Thầy hân hoan khi biết rằng thầy đã phát động được những thần lực khiến cho điều đó có thể.

Milarepa nói như thế. Đây là chương thứ năm, trong đó ngài thông thạo mọi giáo pháp tổng quát và như những giấc mơ tiên tri yêu cầu, ngài có được những giáo huấn khẩu truyền bí mật truyền từ một thầy đến một trò và ngài từ giã lama để về làng mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14423)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14137)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39690)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15300)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13867)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40036)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14621)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12645)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13787)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42597)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13816)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37219)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11743)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22525)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12501)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12561)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13027)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13100)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17252)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33200)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14820)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11947)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51238)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6604)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30395)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13305)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30662)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19334)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12471)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11836)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14753)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13177)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30657)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12018)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11815)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12710)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29395)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11776)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11731)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11543)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9642)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9961)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35384)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10135)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10084)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9638)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27787)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15467)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13656)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9825)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9683)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18300)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12036)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9554)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9676)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8686)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8901)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8394)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11465)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31696)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12325)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9429)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9213)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9067)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29330)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9061)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9076)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33211)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8417)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30580)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31199)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37091)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32232)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9907)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27069)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8435)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19217)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant