Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Tám: Những Chốn Ẩn Tu

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9319)
Chương Tám: Những Chốn Ẩn Tu

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG TÁM
NHỮNG CHỐN ẨN TU

Bấy giờ Retchung hỏi, “Bạch Đạo sư, không có cái gì kỳ diệu hơn tinh túy cuộc đời Thầy, nó thật là một chất liệu cho hoan hỷ và an vui. Nhưng hình thức bên ngoài của nó lại gây ra đau thương và nước mắt. Xin Thầy nói cho chúng con về những mặt của cuộc đời Thầy đem lại nụ cười hoan hỷ.”

Đạo sư trả lời, “Hình thức của đời thầy gây ra nụ cười hoan hỷnỗ lực kiên trì của thầy trong thiền định đưa đến sự phụng sự của thầy cho Pháp bằng cách hướng dẫn những chúng sanh người và chẳng-phải-người đến giải thoát.”

Retchung hỏi, “Bạch Đạo sư, ai là những đệ tử người và chẳng-phải-người đầu tiên ấy ?”

Đạo sư trả lời, “Trước hết, là những chúng sanh chẳng-phải-người đến quấy phá thầy và sau họ là những đệ tử người đầu tiên. Rồi thì thiên nữ Tseringma(1) đến gặp thầy trong hình thức con người. Cuối cùng những đệ tử người khác xuất hiện. Bây giờ thầy thấy trước rằng thiên nữ Tseringma và đệ tử Upa Tonpa (Gampopa) từ vùng UŠ sẽ truyền rộng giáo pháp của thầy.” Đạo sư nói như vậy.

Repa xứ Seban bấy giờ thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, những chỗ ẩn tu chính yếu là Lachi và Chuwar. Ngoài những hang núi Thầy đã nói ở trước, Thầy còn thiền định ở những chỗ nào khác ?”

Milarepa trả lời, “Núi Yolmo Gangra ở Nepal; sáu ngoại động nổi tiếng; sáu nội động vô danh, sáu động bí mật, và hai cái khác, tất cả là hai mươi hang động. Ngoài ra có bốn động lớn nổi danh và bốn động lớn vô danh. Đó là tất cả chỗ thiền định của thầy, trừ một số nhỏ hơn nhưng điều kiện thì tiện lợi. Một kết quả của thiền định là thầy đã hoàn thành sự thức tỉnh toàn triệt, trong đó đối tượng để thiền định, hành động thiền định và chủ thể người thiền định tan hòa thành một, đến độ bây giờ thầy không biết làm sao thiền định nữa.”

Bấy giờ Retchung nói, “Bạch Đạo sư, bởi vì Thầy đã hoàn toàn xóa sạch những nhiễm ô của phân biệt, những đệ tử tầm thường này của Thầy biết ơn Thầy sâu xa vì niềm vui do đã thành tựu cái hiểu chân thậtkinh nghiệm đích thực. Vì lợi lạc tâm linh của những đệ tử đời tương lai, xin Thầy kể cho từng hang động thuộc loại nổi danh, ít nổi danh, và vô danh cũng như những động lớn.”

Đạo sư trả lời:

“Sáu ngoại động nổi danh là: động loại trung Dakar Taso Umadzong (Núi Răng Ngựa Trắng), Minkyud Dibma (Bóng Thất Tinh), Lingpa Dakmor Dzong (Núi Đỏ), Ragma Jangchub Dzong (Động Ragma của Giác Ngộ), Kyangphen Namkha Dzong (Cờ của Bầu Trời), Dagkya Dorje Dzong (Kim Cương Núi Xám).

“Sáu nội động vô danh là: Chonglung Kyung (Kên Kên xứ Chonglung), Kyipuh Nyima Dzong (Lâu Đài Trên của Niềm Vui), Khujuk Enpa Dzong (Chim Cu Cô Đơn), Shelpunhk Chushing Dzong (Cây Tre Pha Lê), Betse Doyon (Lạc Thú Giác Quan xứ Betse), Tsikpa Kangthil Dzong (Nền Tường).

“Sáu động bí mật là: Gyadak Namkha Dzong (Núi và Trời), Takpuhk Senge Dzong (Sư Tử và Cọp), Beypuhk Mama Dzong (Động Bí Mật của Thiên Nữ), Lapuhk Pema Dzong (Hoa Sen của Động), Lango Ludu Dzong (Cửa Voi của chư Long), Trogyel Dorje Dzong (Vua Kim Cương Hung Nộ).

“Hai động khác là: Kyipušhk Nyima Dzong (Lâu Đài Mặt Trời của Niềm Vui), và Potho Namkha Dzong (Bầu Trời của những Chót Đỉnh).

“Bốn động lớn nổi danh là : Nyanang Dopa Puhk (Động Nyanang như cái Bao Tử), Lachi Dudal Puhk (Người Chinh Phục Ma xứ Lachi), Dringi Diche Puhk (Lưỡi Dri vùng Drin). Tisi Dzutrul Puhk (Động Phép Lạ của Núi Kailas). Bốn động vô danh là : Tsai Kangtsuk Puhk (Động Gốc Rễ Kiên Cố), Rongi Osey Puhk (Tịnh Quang của Ron), Ralai Zaok Puhk (Động Lụa của Núi Dê), Kuthangi Puhkron Puhk (Động Bồ Câu xứ Kuthang).

“Nếu các con thiền định trong những hang động này các con sẽ có được hoàn cảnh hoang vắngthuận lợi. Hãy đến đấy và thiền định, các con sẽ có những ban phước của dòng phái.”

Khi Đạo sư nói vậy, mọi đệ tửtín đồ cảm thấy một ghê sợ đối với sanh tử và một sự khẩn thiết cần giải thoát, và xúc động sâu xa bởi niềm tin và lòng bi không bờ bến.

Vì một sự chán ghét sâu xa đối với những phù phiếm của Tám Phản Ứng Thế Gian, họ hồi hướng toàn thể thân, ngữ, tâm mình cho Phật pháp và sự lợi lạc của chúng sanh. Họ thệ nguyện dừng những chuyến đi đây đó và thiền định trong núi hoang vu với quyết tâm, kiên trìkhổ hạnh mãnh liệt. Những vị thần hộ pháp hứa bảo vệ giáo pháp.

Những người thiện căn nhất trong hàng tại gia từ bỏ cuộc đời thế gian, và nhiều người nam nữ theo Đạo sư thiền địnhtỉnh ngộ bản tánh chân thật của thực tại. Những tín đồ kém hơn thì nguyện thiền định vài tháng hay vài năm. Ngay cả những người mới tu cũng phát nguyện từ bỏ ít nhất một tật xấu và thực hành ít nhất một đức hạnh trong quãng đời còn lại của họ. Mọi người đều hoàn thành những lời nguyện của mình.

Tôi đã ghi chép lại đúng những lời Đạo sư đã nói, tỏ bày Ngài đã làm lợi lạc lớn lao cho tất cả những người theo con đường thiền định như thế nào.

Bây giờ tôi sắp mở rộng ra một ít về cuộc đời của Đạo sư.

Có ba nhóm lớn những tín đồ : những chúng sanh chẳng phải người hung ác mà Đạo sư đã hàng phục ; những đệ tử hành giảĐạo sư đã dẫn dắt đến giải thoát và những tín đồ tại gia ở mọi cấp độ từ những vùng khác nhau mà vì họ Đạo sư đã chuyển Bánh Xe Pháp.

Thứ nhất, về sự thu phục những chúng sanh chẳng phải người : Đạo sư đã ban cho Quỷ Vương Binakaya ở Núi Đỏ miền Chonglung giáo pháp Sáu Cách Thức Giác Lama Của Mình.(2) Theo những chỉ dạy của Lama Marpa, Đạo sư đã đi Lachi để thiền định. Khi đại Thần Ganesha (Vua của những Lực Lượng Ngăn Ngại) chấp nhận những điều luật, Đạo sư hát về Lachi Chuzang. Năm sau, khi Ngài đi đến Neti ở Lachi, Ngài hát Bài Ca Tuyết nổi tiếng. Thuận theo những chỉ dạy của Lama, và muốn đến núi Peybar ở Mangyul và đến Yolmo Gangra ở Nepal, Ngài đi qua Gungthang. Thấy Động Lingpa hấp dẫn, Ngài ở lại đó một thời gian và hát một bài ca cho Nữ Quỷ của Động Lingpa. Ở Ragma, Động của Giác Ngộ, sát núi Peybar, Ngài hát bài ca làm bình lặng Nữ Thần Trái Đất và một thần linh địa phương ở tại Động Ragma.

Khi sống ở Kyangphen Namkha Dzong (Cờ của Bầu Trời), Đạo sư đã làm việc cho lợi lạc của nhiều chúng sanh người và chẳng-phải-người. Từ đây, Ngài đi đến Núi Yolmo Gangra và sống trong Động Takpuhk Senge Dzong (Động của Sư Tử và Cọp) trong rừng của Singala, làm lợi lạc cho nhiều chúng sanh người và chẳng-phải-người. Thời gian đó Ngài nhận được một dấu hiệu bảo Ngài trở lại Tây Tạng, để thiền định trong núi vắng và làm việc cho lợi lạc của chúng sanh. Trở lại Tây Tạng, Ngài ở trong một cái Động ở Gungthang và hát Bài Ca của những Chim Bồ Câu.

Thứ hai, về việc Ngài gặp những đứa con tâm linh : Khi Đạo sư đang sống ở Động Dagkya Dorje Dzong (Kim Cương Núi Xám) và thiền địnhlợi lạc của chúng sanh, yidam báo trước cho Ngài biết tất cả những đệ tử sẽ đến, đặc biệt là Retchung Dorje Drakpa, người có sứ mạng đem về giáo pháp truyền khẩu của những dakini từ những địa điểm đặc biệt. Và khi Đạo sư ở Ralai Zaok Puhk (Động Lụa của Núi Dê) ở Gungthang, Ngài gặp đứa con tâm linh Retchung. Về sau Retchung đi Ấn Độ để chữa một bệnh và khi trở về, Đạo sưđệ tử đã gặp lại nhau.

Trong Động Ronpuhi Osey Puhk (Động Tịnh Quang) Ngài gặp Tsakuph Repa, và khi đi đến Ragma Jangchub Dzong (Động Giác Ngộ), Ngài gặp Sangye Kyab Repa (Người Che Chở Giác Ngộ). Rồi ngài đến Động Nyanang, nơi đó Ngài gặp Shakyaguna xứ Kyo, người trước kia đã là một tín đồ, và đưa ông vào con đường giải thoát bằng cách ban cho quán đảnhgiáo huấn.

Trên đường đến Tago phía bắc, Ngài gặp một phụ nữ là Pey Dar Bum (Trăm Ngàn Ngọn Cờ Vinh Quang) ở Losum phía dưới Chung.

Trên đường trở về Ngài gặp Repa xứ Seban ở Yeru trong vùng bắc.

Khi đến Gyalgyi Sri xứ Latoš, Ngài gặp Repa xứ Digom.

Khất thực trong mùa thu, Ngài gặp Shiwa OŠ Repa (Ánh Sáng Bình An) ở Chumig Ngulchu Bum (Một Trăm Ngàn Chuỗi Hạt Thủy Ngân).

Rồi, ở Bachak Gora xứ Chenlung, Ngài gặp Repa xứ Ngan-dzong (Động Ác).

Khi sống ở Lachi, những dakini yêu cầu Ngài thực hiện một lời tiên tri của lama. Trên đường đến Núi Kailas, Ngài gặp Dampa Kyakpuhwa. Khi đến Núi Lowokere, Ngài gặp Repa xứ Karchung. Khi trải qua mùa đông trên những sườn tuyết của Ditse (Đỉnh Di) ở Purang, Ngài gặp Darma Ouangchuk Repa. Trong mùa xuân, đi đến Núi Kailas, Ngài hát về Kailas, nơi Ngài hàng phục tu sĩ đạo Bošn Naro Bošnchung trong một cuộc so tài về thần thông.

Rồi Ngài trở về Dagkya Dorje Dzong (Kim Cương Núi Xám) nơi Ngài Gặp Repa xứ Rongchung. Trên đường đi được những dakini hướng dẫn, Ngài đến Beypuhk Mamo Dzong (Động Bí Mật của các Thiên Nữ). Ở đó vài ngày, một người chăn cừu tên là Lukdzi Repa tìm ra Ngài, người này về sau trở thành một nhà hiền triết. Rồi Ngài gặp Repa Ẩn Giả xứ Shen ở Lapuhk Pema Dzong (Hoa Sen của Động). Hai người này về sau phục vụ Ngài, khi Ngài sống ở Động Lango Ludu (Cửa Voi của chư Long) và ở Động Bí Mật của các Thiên Nữ.

Khi du hành đến Chorodig, Ngài gặp một phụ nữ tên là Retchungma. Và ở Nyishang Gurta xứ Mon, Ngài gặp Repa Người Thợ Săn. Chính ông là người đã làm cho Đạo sư nổi danh ở Nepal. Do một thông điệp của thiên nữ Tara,(3) Vua xứ Khokhom tôn vinh Ngài.

Khi đi đến Chuwar, Ngài dạy những đệ tử về ba nghi thức làm lành để triệu thỉnh thiên nữ Tseringma. Đi xuống Drinding, Ngài gặp Dorje Ouangchuk Repa. Khi Đạo sư và những đệ tử ở trong Động Beypo ở Nyanang, Ngài gặp vị thánh Ấn Độ Dharma Bodhi, vị này tôn kính Ngài. Bởi vì danh tiếng của Milarepa tăng trưởng, Darlo, một pháp sư về giáo nghĩa ganh tỵ và thách Ngài tranh luận. Đạo sư đã trả lời trong chiến thắng với trí huệ cao cả và với sự thực hiện những việc thần thông. Sau đó Ngài hát những bài ca về Retchung và Tibu. Trong thời gian này Ngài gặp Repa xứ Megom ở Động Như Cái Bao Tử. Ở Naktra (Những Dãi Đen), một động của xứ Nyanang, Ngài gặp một thiếu nữ trẻ tên là Sallay OŠ Rema (Ánh Sáng Chiếu Soi).

Rồi Đạo sư rút về Động Núi Đỏ trên một gờ núi cao. Ngài đã biết trước Retchung đang về từ Ấn Độ và đi gặp ông. Đây là một dịp đặc biệt cho Bài Ca Sừng Trâu Yak và Bài Ca Con Lừa Hoang Dã.

Rồi khi đến Chuwar, Ngài gặp Repa Ẩn Sĩ xứ Len đến từ Dagpo. Trên ngọn đồi Trode Tashigang (Hạnh Phúc Được Ban Phước), Ngài gặp Gampopa Dao Shonnu, nhà sư không gì sánh làm y sĩ ở Dagpo, vị này là một Đạo sư của Kim Cương thừa. Là một Đại Bồ tát, ngài tái sanh trong hình thức con người cho lợi lạc của chúng sanh, như đã được đức Phật huyền ký. Gampopa trở thành đệ tử vĩ đại nhất của Đạo sư.

Đạo sư đang ở Omchung (Cây Thánh Liễu Nhỏ) vùng Chuwar, Ngài gặp nhà sư Lotošn, vị này ban đầu chống đối Ngài và sau trở thành đệ tử của Ngài. Rồi khi sống ở Động Kyipušhk Nyima Dzong (Lâu Đài Mặt Trời của Niềm Vui), Ngài gặp Dreton Trashibar. Trong thời gian Đạo sư đi vào thực tập những thần lực yoga vĩ đại, một nhà sư tên là Charuwa xứ Likor theo hầu hạ Ngài.

Như đã được những dakini tiên tri, Đạo sư đã có trong hàng đệ tử tám đứa con tâm linh, mười ba đệ tử thân thiết và bốn nữ đệ tử. Tất cả hai mươi lăm vị này trở thành những Đạo sư Giác Ngộ. Có một bản liệt kê nói rộng về những cuộc gặp gỡ của Ngài với mỗi người trong số này, rất phong phú về trao đổikinh nghiệm (Một Trăm Ngàn Bài Ca của Milarepa).

Thứ ba, về những đệ tử và những tín đồ tại gia từ nhiều vùng, Đạo sư nói Ngài đã gặp những đại đệ tử ở những động vô danhbí mật như thế nào. Ngài kể lại những cuộc gặp gỡ này, nhưng không chỉ rõ thứ tự xảy ra. Trong đó gồm những câu trả lời của Đạo sư cho các câu hỏi của những nhà sưcư sĩ. Khi Ngài ở với Gampopa, Ngài kể câu chuyện Ngài đã gặp gỡ một thầy tu đạo Bošn(4) như thế nào. Rồi đi đến Nyanang, Ngài đã ban cho những quán đảnh và hướng dẫn buổi lễ truyền pháp và thụ phong. Ở Tsarma, Ngài gặp hai đệ tử phụ nữ, Shen Dormo và Legse Bušm. Ở đây Ngài ban cho giáo huấn Chidroš Thigtsakma(5) để tự sửa soạn cho cái chết.

Rồi Ngài đi với Retchung đến Lachi, dừng lại ở Động Dudul Puhk (Người Chinh Phục Quỷ Ma), và lang thang ở vùng lân cận.

Ngài tiếp tục cuộc du hành và thăm Động Nampuhkma xứ Ramdig (Đâm Thủng Bầu Trời).

Cuối cùng, khi ở Động Như Cái Bao Tử miền Nyanang, theo sự thỉnh cầu của hàng cư sĩ, Đạo sư kể lại vài giai đoạn trong đời Ngài và bài ca về chuyến đi Tỉnh UŠ của Retchung. Do dakini Sengdhongma (Mặt Sư Tử), Ngài gặp Dampa, một vị thánh Ấn Độ, ở Thongla.

Ở Leshing Ngài cử hành cho mẹ mình một lễ đặc biệt có tên là Hướng Dẫn Một Cách Bi Mẫn Người Chết Qua Trạng Thái Trung Ấm. Ở Tsarma Ngài ban những giáo huấn cuối cùng của Ngài cho những đệ tử cư sĩ và những người dân khác của xứ Nyanang. Trong chuyến du hành đến Chuwar, Ngài gặp Lhaje Yangde, một người dân Dingri. Khi đến Chuwar, Ngài hát về chuyến đi thứ hai của Retchung đến Tỉnh UŠ. Ngài gặp thí chủ Tashi Tsek ở Lharo vùng Drin. Ở Dakkhar vùng Drin, Ngài gặp Zessay Bušm (người trước kia ngài đã đính hôn), Khujuk và những tín đồ cư sĩ khác.

Trên đỉnh Núi Đỏ, Ngài hàng phục bốn Ma. Ở đó Ngài trả lời những câu hỏi của một người sùng mộ Kim Cương thừa. Ngài đem lại niềm vui bao la cho tất cả những đệ tửthực hiện những sự biến thân.

Vô số người đã nhận những giáo lý, công khaibí truyền, trong thời gian Đạo sư chuyển Bánh Xe Pháp. Được Đạo sư hướng dẫn, những đệ tử phát triển cao nhất đã đạt Giác Ngộ. Những đệ tử kém phát triển hơn được đưa đến giai đoạn đầu của sự thức tỉnh và được chỉ cho con đường giải thoát. Người kém phát triển nhất thì Ngài cũng đưa vào con đường Bồ đề tâm. Qua một sự áp dụng chuyên cần những điều luật Bồ tát, họ đưa được đến một cấp độ trí huệ vững chắc. Thậm chí với người rất kém phát triển nhất, Ngài cũng gieo hạt giống thiện cănbảo đảm cho họ đạt được bình an của những cảnh giới cao hơn trong đời của họ.

Với lòng bi vô biên như bầu trời, Đạo sư che chở cho vô số chúng sanh khỏi khổ cảnh của sanh tử và những cõi thấp bằng cách đem đến cho họ ánh sáng của Phật pháp.

Tất cả những mặt này của cuộc đời Đạo sư được trình bày rộng rãi trong Gur Bušm (Trăm Ngàn Bài Ca).

Đây là chương thứ tám, trong đó Đạo sư phụng sự cho Phật pháp và cho tất cả chúng sanh qua quả của thiền định của Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9799)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9966)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9943)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20531)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10364)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9970)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10356)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9945)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34440)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9639)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8720)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9289)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11111)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8536)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9812)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9188)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20475)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19215)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8767)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8877)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12121)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9612)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23017)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9013)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9277)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9980)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9912)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10635)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10939)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12503)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9357)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9222)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9330)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10463)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22021)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22272)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16626)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9556)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10220)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8411)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8295)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9460)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8846)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8640)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9142)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9618)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8626)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9477)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8638)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8375)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8491)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23647)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9589)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9425)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9016)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8365)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8545)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7896)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7988)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8813)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8949)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10082)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8656)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8639)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30430)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30111)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24194)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9650)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9524)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9519)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7866)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9084)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28243)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12256)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8895)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9669)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9358)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9662)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30926)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27138)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32743)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34028)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27777)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10588)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12480)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58741)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10671)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9414)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9575)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13958)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14229)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10775)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28190)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23299)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant