Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Tông học phát đạt. Vai trò của thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn). Thiền cuối đời Edo.

13 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11970)
Tiết 3: Tông học phát đạt. Vai trò của thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn). Thiền cuối đời Edo.

LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN
Biên dịch: Nguyễn Nam Trân - Bản Thảo 2009

Chương 4 
Phát triển của Thiền thời tiền cận đại (thời Edo)

Tiết 3 - Tông học phát đạt. 
Vai trò của thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn). 

Thiền cuối đời Edo. 

Sự bế tắc của chính trị mạc phủ. Văn hóa bình dân thời Kasei (Hóa Chính) 

Vị shôgun đời thứ 8 của mạc phủ là Yoshimune (Cát Tông, tại chức 1716-45), xuất thân từ chi Kishuu (tức bán đảo Kii, thuộc tỉnh Wakayama và Mie bây giờ) của họ Tokugawa. Ông biết tìm cách sử dụng nhân tài, chỉnh đốn chế độ tư pháp, kiệm ước và tăng gia thu nhập, thi hành nhiều chính sách nhằm tái lập sự ổn định của tài chánh mạc phủ và phiên trấn. Chính quyền của ông đã thực hiện một trong 3 cuộc cải cách lớn của mạc phủ Edo vào năm Kyôhô (Hưởng Bảo, 1716-45). Sau đó vì nền kinh tế hóa tệ bị xói mòn và thiên tai liên tiếp, tài chánh của mạc phủ vốn dựa trên cơ sở nông nghiệp gặp phải nguy cơ. Nó đã dẫn đến hai cuộc cải cách năm Kansei (Khoan Chính, 17897-93) và Tenpô (Thiên Bảo, 1841-43). Tuy mạc phủ thường xuyên thực thi những cuộc cải tổ như thế nhưng kết quả không được bao nhiêu. Dần dần giới samurai chán nãn mệt mỏitúng quẫn, tự viện Thiền Tông vốn đóng vai trò hậu thuẫn cho họ cũng lâm vào cảnh khốn cùng. Hơn nữa thế lực của liệt cường như Nga, Anh...đã bắt đầu vươn tới, cho dầu chế độ mạc phiên có vững mạnh đến đâu cũng bắt đầu có triệu chứng dao động. Mặt khác, các phiên trấn ở miền Nam như Satsuma, Chôshuu, Tosa đã thành công trong việc cải cách của họ, bắt đầu có tiếng nói trong triều đình. 

Bước vào thế kỷ thứ 19, một nền văn hóa bình dân (chônin no bunka =văn hóa của người kẻ chợ) gọi là văn hóa Kasei (Hóa Chính, tên ghép chung của niên hiệu Văn Hóa hay Bunka 1804-1818 và Văn Chính hay Bunsei = 1818-1830) mà trung tâm là Tôkyô đã bắt đầu khai hoa. Cùng với sự phổ cập của các ngành xuất bản, giao thương và giao thông, văn hóa ấy đã lan ra khắp nước. Về văn chương có các cây viết tiểu thuyết Ueda Akinari (1734-1809), Jippensha Ikku (1765-1831), về mỹ thuật có nhà hội họa Nam họa Ike Taiga (1723-1776), Yosa Buson (1716-1783), Tanomura Chikuden (1777-1835), về tranh ukiyo-e đề cập đến phong tục xã hội có Katsushika Hokusai (1760-1849), Andô Hiroshige (1797-1858). Trong tông Tào Động phải kể đến thiền sư và thi nhân Taigu Ryôkan (Đại Ngu Lương Khoan, 1758-1831), còn tông Lâm Tế thì đã có Sengai Gibon (Tiên Nhai Nghĩa Phạn, 1750-1837) cũng là một thiền sư kiêm họa gia với lối vẽ độc đáo. 

Về phương diện học vấn và tư tưởng, giai đoạn này đã có những nghiên cứu thực chứng thành công trong các lãnh vực khoa học. Quốc học đã có Kamo no Mabuchi (1697-1769) và Motoori Norinaga (1730-1801), y học thì phải nói đến nhà đông y chú trọng về lâm sàng là Yamawaki Tôyô (1705-1762). Tinh thần thực chứng ấy đã được thừa kế bởi Maeno Ryôtaku (1723-1803), Sugita Genpaku (1733-1817) bằng cách du nhập y học Tây Phương. Ngay cả trong thiên văn học hay lịch pháp cùng kỹ thuật trắc lượng, dần dần người thời ấy đã biết đem học vấn Tây Phương vào nước mình. Trong đám nho gia đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng với tinh thần phê phán sắc bén như các ông Tominaga Nakamoto (Phú Vĩnh Trọng Cơ, 1715-1746) với tác phẩm Shutsujôkôgo (Lời thốt ra sau khi xuất định), Yamagata Bantô (Sơn Phiến Bàn Đào, 1748-1821) với Yume no Shiro (Thay cho mộng, 1820), trong đó, họ cực lực lên án Phật giáo

Trong khi lý luận về diễn tiến của tư tưởng Phật giáo, Tominaga (Phú Vĩnh) cho rằng tư tưởng Phật giáo đại thừa không thể nào là thuyết do Thích Ca đề xướng (Đại thừa phi Phật thuyết). Các tông phái đều cảm thấy đụng chạm vì như thế Tominaga đã phủ định tất cả tông chỉ của họ nên chư tăng viết không biết bao nhiêu tác phẩm để phản kích. Ngoài ra Yamagata (Sơn Phiến) trong Yume no shiro đã dựa vào Thiên Địa Nhị Cầu Dụng Pháp Ký (Ghi chép về cách vận hành của mặt trời và quả đất), Thái Dương Cùng Lý Liễu Giải Thuyết (Giải thích rõ ràng về vai trò của mặt trời), hai quyển sách về thiên văn do nhà học giả Lan học (học thuật Tây Phương do người Hòa Lan đem đến) (gọi là rangakusha) tên Motoki Yoshinaga (Bản Mộc Lương Vĩnh, 1735-1794) dịch ra để trình bày về địa động thuyết [11], mục đích phủ định từ gốc rễ quan niệm Tu Di Sơn trong thế giới quan Phật giáo. Điều này cũng làm cho Phật giáo đồ thời đó cảm thấy bị xúc phạm. Vì lẽ đó, tăng sĩ phái Thiên Thai như Fumon Entsuu (Phổ Môn Viên Thông) đã thử tranh cãi nhưng trước tinh thần thực chứng của khoa học hiện đại, ông ta đành phải thúc thủ

Tuy rằng ở Nhật việc nho gia bài bác Phật giáo không phải mới bắt đầu có từ thời kỳ đó nhưng lập luận của những người chống đối Phật giáo đương thời có cơ sở lý luận thực tiễn chứ không chỉ phát ngôn trên chiều hướng dị biệt về lập trường không thôi như từ trước đến nay. Do đó, ảnh hưởng do họ đem đến cực kỳ to tát.Vào thời này, còn có những tác phẩm chống đối Phật giáo gọi là "bài Phật thư" xuất hiện, ví dụ Bendôsho (Biện đạo thư, 1735) của Dazai Shundai (Thái Tể Xuân Đài, 1660-1748), Sôbô kigen (Thảo mao nguy ngôn,1791) của Nakai Chikuzan (Trung Tỉnh Trúc Sơn, 1730-1804). Ngoài ra, những học giả quốc học với tinh thần phục cổ thần đạo như Hirata Atsutane (Bình Điền Đốc Dận, 1776-1843) cũng ra tay bài xích Phật giáo một cách tích cực. Tất cả đã làm cho phong trào bài Phật vào cuối đời mạc phủ lên cao. Đặc biệt ở những phiên trấn như Mito, Okayama, Aizu, Kagoshima vv...người ta đã bắt đầu mạnh tay xếp đặt lại hệ thống chùa chiền và bắt buộc tăng ni hoàn tục. Việc này chỉ là bước đầu của phong trào đánh phá Phật giáo mang tên haibutsu kishaku tức "phế Phật hủy Thích" thời Minh Trị. 

Cuối đời mạc phủ có những vị tăng theo chủ trương tôn quân như Motsugen Fusen (Vật Ngoại Bất Thiên, 1785-1867, tông Tào Động) và Maigan Dôkaku (Hối Nham Đạo Quách, 1798-1872, tông Lâm Tế) hoạt động. Tư tưởng của họ ngoài ý thức hộ quốc và chống đối đạo Ki-Tô, còn được tạo thành bởi một yếu tố lớn là tinh thần hộ pháp đứng trước những luận điệu bài Phật. 

blank
Motsugen Fusen (Vật Ngoại, Bất Thiên, 1785-1867), 

một thiền sư của thời Duy Tân.

Tông học phát đạt

Trong giai đoạn này, các tông phái Phật giáo khác cũng có nhiều tăng sĩ học vấn giỏi giang xuất hiện. Ví dụ Phượng Đàm Tăng Tuấn (1659-1738, tông Hoa Nghiêm), Phổ Tịch Đức Môn (1707-1781, tông Tịnh Độ), Từ Vân Ẩm Quang (1718-1804, tông Chân Ngôn). Giáo đoàn Thiền Tông về mặt đó cũng không hề thua kém. Phía tông Lâm Tế có các tăng sĩ như Đại Tâm Nghĩa Thống (1657-1730, thuộc phái chùa Daitokuji tức Đại Đức Tự) là người đã soạn Chính Đăng Thế Phổ hay Giang Nam Nghĩa Đế (năm sinh và mất không rõ, cũng thuộc Daitokuji) tác giả của Thiền Tịch Chí (1716) vv...Kế tiếp họ là Vô Trước Đạo Trung (Mujaku Dôchuu, 1653-1744, người phái Myôshinji tức Diệu Tâm Tự). 

Mujaku (Vô Trước) là nhân vật tiêu biểu của những nhà tu hành học vấn uyên thâm của Thiền Tông dưới thời Edo. Họ đã lập ra được phương pháp nghiêm túc để nghiên cứu văn bản và đã hiệu đính được nhiều kinh sách cũng như để lại đời sau một số lượng trước tác lớn lao. Lãnh vực họ quan tâm đến không chỉ ngừng lại trong địa hạt của Thiền Tông nhưng bao gồm cả Phật học nói chung, quốc học, Trung Quốc học, văn học chữ Hán nữa. Trong số đó có nhiều nghiên cứu liên quan đến Thiền Tôngcho đến ngày nay, giá trị của chúng vẫn không hề suy suyển, thường được sao đi chép lại để sử dụng

Về sau, từ tông Lâm Tế lại có Quế Châu Đạo Luân (1714-1794, phái Gozan tức Ngũ Sơn), Cao Phong Đông Tuấn (1714-1779, cũng thuộc phái Gozan)...xuất hiện. Họ đều chịu ảnh hưởng phương pháp khảo chứng học của Mujaku trong việc nghiên cứu

Thiền sư Mujaku Dôchuu (Vô Trước Đạo Trung

Ông người vùng Tajima (gần Kobe bây giờ), tục tính là Kumada. Năm 8 tuổi lên Kyôto và xuất gia, trở thành đệ tử Jikuin Somon (Trúc Ấn Tổ Môn, 1610-1677) của Long Hoa Viện (Ryuugein) chùa Myôshinji (Diệu Tâm Tự), người đã đứng ra vận động cho Ẩn Nguyên tới trụ trì ở đấy. Sau đó Mujaku đã nhận pháp tự của thầy. Năm 25 tuổi, thầy mất, ông trở thành viện chủ đời thứ hai.Từ thưở nhỏ, Mujaku đã hay ra vào nghe giảng kinh, sau có lúc tham học với đệ tử của Taigu Sôchiku (Đại Ngu Tông Trúc) là Mokuin (Mặc Ấn, năm sinh và mất không rõ), ba lần trong đời làm trụ trì ở Myôshinji. Từ khi trẻ, ông đã đi nhiều nơi cầu học cho nên thu thập được nhiều kiến thức trong nhiều lãnh vực từ Thiền tịch, Phật điển, Hán tịch, lịch pháp cho đến tiểu thuyết Trung Quốc, văn chương cổ điển Nhật Bản, tham gia vào việc sao chép và hiệu đính các văn bản cổ và quí hiếm. Có lúc lại giảng nghĩa Thiền tịch và viết sách chú giải cũng như từ điển. Ông trước tác rất nhiều, có đến 911 quyển và 374 thể loại khác nhau. Chủ yếu có những tự điển và từ điển Zenrin Hôgo (Thiền Lâm Phương Ngữ), Shina Zokugo (Chi Na Tục Ngữ), Zenrin Shôkisen (Thiền Lâm Tượng Khí Tiên, 1715), Kattô Gosen (Cát Đằng Ngữ Tiên, 1726), các sách chú giải như Kidôroku Rikô (Hư Đường Lục Lê Canh = Cày bới Hư Đường Lục), các bản hiệu đính của Kosonshuku Goyo (Cổ Tôn Tức Ngữ Yếu, 1731), Thiếu Lâm Tam Luận (tức Đạt Ma Đại Sư Tam luận, 1735). Tất cả đều được biên soạn một cách nghiêm chỉnhcông lao của ông vẫn được người đời nay đánh giá cao. Ngoài ra, đáng chú ý hơn hết là Shôsôrin Ryakushingi (Tiểu Tùng Lâm Lược Thanh Qui, 1684), một cuốn sách cho đến bây giờ còn sử dụng như kim chỉ nam trong các đạo tràng Lâm Tế, Ôbaku Geki (Hoàng Bá Hạ Ký, 1720) phê phán phái Hoàng Bá và Eihei Shôbô Genzô Nenpei (Vĩnh Bình Chính Pháp Nhãn Tạng Niêm Bề) để đả kích kịch liệt luận cứ trong Shôbô Genzô. Sở dĩ Mujaku đã sớm có dịp nghiên cứu tác phẩm nói trên của Dôgen là bởi vì ông quen biết nhiều tăng sĩ phái Tào Động là Baihô Jikushin (Mai Phong Trúc Tín). 

Mặt khác, phía tông Tào Động, sau thời Manzan Dôhaku (Vạn Sơn Đạo Bạch, 1618-1696) ít lâu mới có Tenkei Denson (Thiên Quế Truyền Tôn, 1648-1735). Thế nhưng cách suy nghĩ về sự truyền pháp của hai ông lại đối nghịch nhau: khác với Manzan là người coi trọng hình thức nhận pháp tự trực tiếp từ một người thầy (diện thụ), Tenkei chủ trương chỉ có sự ngộ đạo trong nội tâm mới là cần thiết. Do đó, môn đệ của hai ông đã tranh luận khá lâu trong một thời gian, mãi đến khi Menzan Zuihô (Diện Sơn Thụy Phương) xuất hiệncan thiệp vào thì người ta mới coi quan điểm của Manzan là chính thống. Môn phái của Tenkei chỉ vì chủ trương của mình mà bị phái chính thống bài xích là Tenkei Jigoku hay "địa ngục của Thiên Quế". Tuy vậy, từ phái Tenkei đã sinh ra nhiều nhà tu học vấn giỏi giang trong đó trội hơn cả là Fuô Rôran (Phụ Ấu Lão Noãn, 1723-1805). 

Về phần Menzan (Diện Sơn), ông sử dụng trở lại "Chính Pháp Nhãn Tạng Ngự Văn Thư Sao" của Keigô (Kinh Hào, đồ tôn của Dôgen, xem hệ phổ 1) lúc bấy giờ đã có được tiếng vang để nghiên cứu một cách còn nghiêm túc hơn những công trình của tiền nhân từ Geshuu (Nguyệt Chu) tới Manzan (Vạn Sơn) về Seibô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tạng). Chẳng những thế, Menzan còn sưu tầm về hành trạng của Dôgen (Đạo Nguyên) cũng như nghiên cứu thêm về thuyết ngũ vị, kể cả cho xuất bản các sách như Chính Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn Ký, ký sự theo thầy của học trò Dôgen là Koun Ejô (Hoài Trang) vào năm 1769. Như thế ông đã xác định phương hướng tính của những công trình nghiên cứu của mình nghĩa là tập trung vào Dôgen và tông Tào Động (Tào Động tông học). Sự quan tâm đến Seibô Genzô được nhen nhúm bởi Manzan và Menzan đã bùng lên. Để đánh dấu sự nghiệp vĩ đại của Dôgen nhân ngày giỗ lần thứ 550 của ông người phái Tào Động đã bắt tay vào việc cho xuất bản bộ Seibô Genzô Toàn Tập gồm 95 quyển (bản bản sơn, hoàn thành năm 1816). 

Từ thời Muromachi bước qua buổi đầu thời Edo, tông Tào Động đã bước đi cùng một nhịp điệu với tông Lâm Tế thế nhưng tông Tào Động đã phục hưng bằng cách trở về nguồn tức tìm đến với giáo lý của Dôgen, như thế, sự khác biệt giữa tông phong của họ với tông phong của Lâm Tế là một yếu tố quyết định. Còn tông Lâm Tế thì, từ đó về sau, để dễ tìm về con đường giác ngộ (satori), họ chỉnh lý các công án thành một hệ thống và càng ngày càng chú trọng đến việc tự pháp bằng ấn chứng của sự ngộ đạo (ấn chứng hệ). Hơn nữa, về phía phái Tào Động, nhân vì quan điểm của Dôgen rõ ràng là phê phán thiền công án, theo đó, họ xem sự tự pháp bằng "diện thụ" mới là phương pháp chính (già lam pháp hệ). Và như thế, trong công việc tu hành, tông Tào Động đặc biệt rất thận trọng trong việc dùng công án.Ngoài ra, về nghi thứctăng đường thì Tào Động theo nghi thức cổ xưa. Vì họ muốn nỗ lực bài trừ ảnh hưởng của phái Hoàng Bá cho nên khi tọa thiền hay quay mặt vào vách (trong khi các tăng Hoàng Bá nhìn ra hành lang) cũng như tổ chức ăn cơm ở tăng đường (trong khi các tăng Hoàng Bá thụ trai ở trai phòng), và như thế đã sinh ra những điểm khác nhau đối với cách thức sinh hoạt của tông Lâm Tế

Nhân vì tông Tào Động không xem việc tìm cho được sự giác ngộ (satori) là điều quan trọng nên họ chỉ dồn sức vào việc phát triển học vấn. Ấy là nguyên nhân chính của sự thành hình chế độ gakuryô hay học liêu: ở Edo có 3 học liêu chính (sangakurin hay tam học lâm): Sendanrin (Chiên Đàn Lâm, lập ra năm 1592) ở chùa Kichijôji (Cát Tường Tự, khu Komagome), Shishikutsu (Sư Tử Quật, khoảng năm 1600) ở Seishôji (Thanh Tùng Tự, khu Shiba) và Sengakuji Gakuryô (Tuyền Nhạc Tự học liêu, khu Takanawa). Trong các học liêu, ngoài việc truyền thụ kiến thức về kinh điển nhà Phật và sách vở chư tổ còn giảng về các sách chữ Hán và dạy làm thơ viết văn cũng như xuất bản tư liệu. 

Trong số những học tăng quan trọng của tông Tào Động có hai thầy trò Shigetsu Ein (Chỉ Nguyệt Huệ Ấn). Katsudô Honkô (Hạt Đường Bản Quang) đã đóng góp vào việc giáo dục ở Sendanrin (Edo) và chú thích nhiều kinh điển của tông mình. Ngoài ra phải kể đến Manjin Dôtan (Vạn Nhận Đạo Đàn) và Kan.u Irin (Cam Vũ Vi Lâm, 1786-1872) đã dựa trên lập trường của tổ Dôgen phê pháp thuyết tam giáo nhất trí, hai thầy trò Genrô Ôryuu (Huyền Lâu Áo Long, 1720-1813) và Fuugai Honkô (Phong Ngoại Bản Cao, 1779-1847) nổi tiếng vì cùng nhau biên soạn tập công án Tetteki Tôsui (Thiết Địch Đảo Xuy, trong đó Ôryuu tụng cổ và Honkô bình xướng). Riêng Fuugai còn viết thêm các sách chú thích Thiết Địch Đảo Xuy Sao và Bích Nham Lục Nhĩ Lâm Sao (1840) cũng như giải thích về thuyết Nho Thần Phật tam giáo nhất trí trong tác phẩm Tam Giáo Đỉnh Túc Đàm. 

Học vấn dưới thời Edo nếu phát triển được dĩ nhiên là nhờ ở sự khuyến khích của mạc phủ, sự hoàn chỉnh của qui chế tự viện và cũng là do sự ổn định của tình hình kinh tế. Tuy vậy, đối với giới tăng lữ vì bị cấm đoán không thể phát triển ra ngoài phạm vi giáo đoàn, học vấn là một trong những lãnh vực ít ỏi mà họ có thể hoạt động một cách nghiêm túc. Một mặt, những thành quả đạt được không phải nhỏ nhưng mặt khác, không thể nói là họ không có khuynh hướng làm ngơ trước những đề tài đáng lẽ quan trọng hơn nhiều đối với người tu hành như tình cảm và thể nghiệm tôn giáo hay vấn đề cứu độ người khác. Trên thực tế, học vấn của họ chung qui chỉ ngừng lại ở phạm vi văn bản học (philology) mà không biết đến thế giới hiện thực bao quanh mình. Nhìn chung, ta thấy giới tăng sĩ thời đó ngoài việc dồn hết tâm lực vào những điều nói trên thì không hưởng được tự do để làm được một chuyện gì khác. 

Cũng vào giai đoạn này, Phật giáo thường bị chỉ trích là đã lún sâu vào con đường thế tục. Theo sách Seji Kenbunroku (Thế Sự Kiến Văn Lục, 1816) của Buyô Inshi (Vũ Dương, Ẩn Sĩ) cho biết, trong khi tông Tào Động có qui định phải tu hành trên 20 năm mới đạt được trình độ trưởng lão hay đại hòa thượng thì trên thực tế, có những kẻ chẳng cần tu hành gì cả, chỉ cần đóng 10 lượng là có thể trở thành hòa thượng. Lại nữa, muốn trở thành trụ trì một danh lam như Eiheiji (Vĩnh Bình Tự) phải bỏ ra một món tiền lớn là 2000 lượng. Do đó, không mấy ai có thể chuyên tâm hành đạo.Còn như quan tâm đến việc học, chẳng qua là một trò giải trí và cũng không đi ra ngoài con đường thế tục hóa của tùng lâm

Sự hồi sinh tinh thần tham thiền Gozan. 
Vai trò của thiền sư Kogetsu Zenzai (Cổ Nguyệt Thiền Tài) 

Các chùa tông Lâm Tế, kể từ sau cuộc loạn Ônin (1467-77), cũng còn nhiều nơi tăng đường đổ nát chưa được trùng tu lại. Dĩ nhiên tài chính là một vấn đề nhưng ngoài ra vì khuynh hướng mật tham trở thành thời thượng, việc tham thiền tự nó đã suy thoái nhiều nên không ai có nhiệt tình bắt tay vào việc tái thiết. Khi thời Edo bắt đầu (1603) tình thế cũng không có gì thay đổi cho đến khi ở các địa phương, nhờ chịu ảnh hưởng của Dôsha Chôgen (Đạo Giả Siêu Nguyên) và các tăng Hoàng Bá, dần dần hồi phục được việc tu hành ở các tăng đường. Phong trào này từ địa phương đã tiến về trung ương. Năm 1729, nhân ngày giỗ lần thứ 450 năm của người khai sơn Tôfukuji (Đông Phúc Tự) là Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ tức Thánh Nhất Quốc Sư, 1202-1280), Zôkai Etan (Tượng Hải Huệ Đam (Trạm), 1682-1733), một tăng sĩ có tiếng vì các hoạt động ở địa phương, đã được mời đến hành lễ sennin kessei (thiên nhân kết chế) [12] ở đấy.Tôfukuji lúc đó là nơi còn giữ được một tăng đường với hình dáng của thời trung cổ. Nhân đó, các chùa Gozan ở Kyôto cũng dần dần mở các tăng đường tuy qui mô của chúng nhỏ hơn vì chỉ được dựng lên bên trong các tháp đầu chứ không liên hệ gì đến việc trùng tu thất đường già lam.(Riêng hai chùa Myôshinji và Daitokuji thì đạo tràng chuyên môn mở rất trễ, phải đợi đến đầu thời Meiji mới thực hiện được). Từ năm 1734 trở đi, Nanzenji, Tenryuuji, Shôkokuji, Kennninji, Tôfukuji thay phiên nhau mở những cuộc hội họp gọi là kết chế (hình thức liên hoàn kết chế). Ảnh hưởng của nó lên đến Kamakura, hai chùa Kenchôji (1734) và Engakushi (1735) đã mời Jôzan Jakuji (Định Sơn Tịch Nhi, 1676-1736) mở đại hội kết chế. Lúc đó các chùa khác ở Kamakura đã suy vi: Jômyôji (Tịnh Diệu Tự) và Jufukuji (Thọ Phúc Tự) đã trở thành chi nhánh của Kenchôji, còn Jôchiji (Tịnh Trí Tự) phụ thuộc vào Engakuji. 

Trong chế độ kết chế (kessei), cần phải có một nhân vật chỉ đạo gọi là sư gia (shige, nhưng đương thời gọi là tiền bản hay zenban). Thời đó, có thể đảm đương được việc này là những người có tầm cỡ và chỉ xuất thân từ phái Kanzan như Jôzan Jakuji (Định Sơn, đã nhắc đến bên trên), Kogetsu Zenzai (Cổ Nguyệt Thiền Tài, 1667-1751) và Zôkai Etan (Tượng Hải, đã nói ở trên). Jôzan và Kogetsu đều là đệ tử Kengan Zen.etsu (Hiền Nham Thiền Nguyệt, 1618-1696), một học trò của Dôsha Chôgen (Đạo Giả). Còn Zôkai lại xuất thân từ dòng Daimuu Sônin (Đại Mộng Tông Nhẫn, năm sinh và mất không rõ), một đồng môn của Zen.etsu. 

Trong nhóm nói trên, hoạt động mạnh mẽ nhất có lẽ là Kogetsu Zenzai, người đã từng thờ Bankei Yôtaku làm thầy và theo học ở các chùa như Tôfukuji. Ông đã được Shimazu Tadahisa (Đảo Tân Duy Cửu, 1675-1738) mời đến trụ trì chùa Daikôji (Đại Quang Tự) ở Hyuuga (tỉnh Miyazaki), lại được họ Arima (Hữu Mã) mời đến khai sơn Fukujuji (Phúc Tụ Tự) ở Kurume (tỉnh Fukuoka). Kogetsu đã đào tạo được nhiều đệ tử như Hokuzen Dôsai (Bắc Thiền Đạo Tế, ? - 1723), Ranzan Shôryuu (Lan Sơn Chính Long, 1713-1792), Kaimon Gentô (Hải Môn Nguyên Đông, ? - 1759). Kaimon vào Kenchôji, còn Seisetsu Dôchô (Thành Chuyết Đồng Trư, 1745-1820), đồ tôn của Hokuzen và học trò của Gessen Zenne (Nguyệt Thuyền Thiền Huệ, 1702-1781) thì vào Engakuji, là những người tiên khu hòa nhập vào hệ thống Gozan (Ngũ Sơn). 

Như thế, phái Kogetsu đã lợi dụng việc phục hưng của tăng đường các chùa Gozan để nới rộng thế lực của mình. Thế nhưng, với sự xuất hiện của Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 1658-1768), đông đảo môn đồ phái Kogetsu đã đến tụ họp dưới trướng của ông làm cho pháp hệ của Kogetsu đã hầu như bị dứt tuyệt từ khi thời Meiji bắt đầu. Lý do là giữa hai môn phái, thiền phong có những điểm không giống nhau. Tuy hai phái đều chủ trương dùng công án để tìm về đại ngộ thế nhưng Kogetsu không trừ khử được tính cách coi trọng kiến thức của Gozan và của cả phái Hoàng Bá.Trong lúc đó, Hakuin chỉ thôi thúc người ta tham thiền, ông chuyên tâm vào việc xếp đặt công án thành hệ thống và soạn ra phương pháp luận để chỉ đạo việc tu thiền. Hakuin đã thắng lợi nhờ sự hấp dẫn do tính cách tôn giáo của Thiền Tông

Ngày nay, tuy pháp hệ Kogetsu đã tuyệt nhưng nhờ sự xuất hiện của phái ấy mà dã có sự thay đổi lớn trong việc truyền thụ pháp tự bên trong phái Lâm Tế và đó là điều hết sức quan trọng. Do công lao hoạt động của Kogetsu mà pháp hệ theo ấn chứng hệ của tông Lâm Tế mới thành lập được và dần dần lọt vào một tay phái Kanzan (Quan Sơn). Tuy vậy, chế độ honmatsuji (bản mạt tự, tức chế độ chùa chính chùa phụ do mạc phủ đặt ra) vẫn được áp dụng nên hai thứ, già lam pháp hệ có từ xưa nayấn chứng pháp hệ của tông Lâm Tế, vẫn tồn tại song song. Kể từ thời Kogetsu, trong môn phái Lâm Tế, người ta coi trọng sự tự pháp theo ấn chứng hệ, xem đó là điều kiện bắt buộc để trở thành sư gia (shige, kẻ chỉ đạo). Cái rắc rối là số người có đủ điều kiện để nhận được ấn khả cực kỳ ít cho nên nói chung thì sự thừa kế trong các tự viện vẫn phải căn cứ trên già lam pháp

Sự hình thành và phát triển của thiền Hakuin (Bạch Ẩn) gốc Lâm Tế 

Hakuin Ekaku nhận pháp tự từ Đạo Kính Huệ Đoan,1642-1721) theo tuần tự của hệ phổ từ Ngu Đường Đông Thực qua Chí Đạo Vô Nan đến Đạo Kính Huệ Đoan. Như thế ông là đồ tôn đời thứ 4 của Gudô Tôshoku (Ngu Đường), một nhân vật tiên khu trong phong trào phục hưng Phật giáo, cũng là người đã bảo vệ tính chính thống của Thiền học đời Tống (Tống Thiền) và từng phê bình (khuynh hướng Thiền đời Minh của) Ẩn Nguyên. 

Hakuin là một người tầm cỡ lớn lao và ta có thể nhận thấy điều đó khi tìm hiểu tư tưởng của ông. Tuy nhiên, cái công lớn nhất của ông là đã phân loại các công án theo nội dung, tìm ra những mối tương quan giữa chúng để kết nối lại thành một hệ thống cũng như biết cách chỉ đạo người tu hành một cách có hiệu quả. Tư tưởng của ông đã bắt nguồn từ cách suy nghĩ của thiền gia từ đời Tống trở về sau, muốn xem công án như một công cụ để tìm về giác ngộ, nhưng hơn thế, ông đã biết phát triển cách sử dụng nó đến mức tối ưu. Đó là một điều rất quan trọng trong bối cảnh toàn bộ lịch sử Thiền Tông
 

blank
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 1685-1768) 

đã đại thành thiền công án ở Nhật.

Thiền sư Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc

Ông người Suruga (tỉnh Shizuoka bây giờ), năm 15 tuổi xuất gia, vào Shôinji (Tùng Lâm Tự) ở Hara học đạo với Tanrei Soden (Đơn Lĩnh Tổ Truyền) (năm sinh ra mất không rõ), sau đó đến Daishôji (Đại Thánh Tự) ở Numazu học với sư Sokudô (Tức Đạo, năm sinh và mất không rõ). Đến năm 1703, dừng chân ở tăng đường Zensôji (Thiền Tùng Tự) nhưng thất vọng vì Thiền nên chuyên chú vào thi văn. Mãi về sau mới được khai nhãn sau khi đọc tác phẩm Zenkan Sakushin (Thiền Quan Sách Tiến, 1600) của thiền sư thời Minh mạt Vân Thê Chu Hoằng (Unsei Shuukô) và lên đường hỏi đạo nhiều nơi. Năm 1708 đến Takada thuộc vùng Echigo (tỉnh Niigata bây giờ), được sự chỉ dẫn của sư Shôtetsu (Tính Triệt, năm sinh và mất không rõ) ở Eiganji (Anh Nham Tự) mà ngộ đạo với công án "Con chó của Triệu Châu" (Triệu Châu Vô Tự). Tuy nhiên, mới được như thế đã sinh lòng ngạo mạn, sau nhờ sự dạy dỗ của Shôjuu Rôjin (Chính Thụ Lão Nhân, 1642-1721, tức thiền sư Đạo Kính Huệ Đoan = Dokyô Etan) mới đại ngộ và nhận được pháp tự của ông. Năm 1710, nhân sa vào trong vòng "bệnh thiền"[13], mới tìm đến Hakuyuushi (Bạch U Tử, năm sinh và mất không rõ), một nhà ẩn tu ở Kita-Shirakawa (vùng Kyôto) để học phép nội quan (tập trung tinh thần quan sát nội tâm của chính mình) để trị tuyệt chứng trạng ấy. Quá trình khắc phục bệnh thiền về sau đã được ông ghi chép lại trong Yasen Kanna (Dạ Thuyền Nhàn Thoại, 1757). Kể từ năm 1712 về sau lại đi khắp nơi hỏi đạo và vào năm 1716, về lại chùa xưa Shôinji, dùng nơi đây làm bàn đạp để đi giảng đạo quanh vùng. Hakuin đã để lại nhiều sáng tác. Về Hán văn, chủ yếu có Kaiankoku-go (Hòe An Quốc Ngữ, 1750), Keisô Dokuzui (Kinh Tùng Độc Nhụy = Khóm gai nhụy độc, 1758). Viết bằng quốc ngữ kana thì có Orategama (Viễn La Thiên Phủ, 1751), Sokkoroku Kaien Fusetsu (Tức Canh Lục Khai Diên Phổ Thuyết, 1743), Yabukôji (Tẩu Cam Tử, 1760), Otafuku Jôrô konahiki uta (Ngự Đa Phúc Nữ Lang Phấn Dẫn Ca)[14] , Zazen Wasan (Tọa Thiền Hòa Tán) vv... Hakuin cũng giỏi về thư đạo và hội họa. Ông phân biệt rành mạch Thiền (Zen) và Niệm Phật (Nenbutsu), vừa nối tiếp truyền thống của công án thiền đời Tống, vừa phân loại và hoạch định ra phương pháp sử dụng các công án, ngoài ra còn sáng tạo ra những công án mới như Sekishu Onjô (Chích thủ âm thanh tức Tiếng vỗ của một bàn tay). Do đó ông được xem như bậc thầy đã đại thành công án thiền ở Nhật Bản

Nhờ công đức lớn lao như vậy cho nên các đệ tử đồ tôn của ông cũng được hưởng phước phần. Có thể xem ngày nay trên đất Nhật, hệ phái của ông hầu như đã nắm trọn tông Lâm Tế. Thế nhưng mặt khác, vì trong tác phẩm Sankyô.icchi no Ben (Tam Giáo Nhất Trí Chi Biện), ông thuyết giảng "tam giáo nhất trí" và "chư tông đẳng đồng", khuyến khích người bình dân làm việc thiện nhưng vẫn dựa trên một tiền đề là chế độ giai cấp (mibun seido) của thời phong kiến, cho nên đã bị chỉ trích là chủ trương một thứ Phật giáo cổ hủ dựa trên thể chể mạc phủ và phiên trấn. . 

Môn đệ Hakuin có rất nhiều nhưng quan trọng hơn cả là ba nhân vật là Suiô Genrô (Toại Ông Nguyên Lô, 1719-1789), Tôrei Enji (Đông Lĩnh Viên Từ, 1721-92), và Gazan Jitô (Nga Sơn Từ Trạo, 1727-97). Các ông ấy người nào cũng từng theo học Kogetsu Zenzai trước đây cả. Suiô (Toại Ông) kế nghiệp Hakuin trở thành trụ trì của Shôinji (Tùng Âm Tự) ở Suruga. Tôrei (Đông Lĩnh) đóng ở Ryuutakuji (Long Trạch Tự) tỉnh Mishima, nơi Hakuin đã khai sơn, viết nhiều tác phẩm trình bày lại tư tưởng của Hakuin như Suumon Mujintô-ron (Tông Môn Vô Tận Đăng Luận, 1748), Shinjuubutsu Sankyô Kôkyô Kuge (Thần Nho Phật Tam Giáo Hiếu Kinh Khẩu Giải, 1785) cũng như Goke Sanzen Yôrômon (Ngũ Gia Tham Thiền Yếu Lộ Môn, 1788). Mặt khác, Gazan Jitô (Nga Sơn) thì đào tạo được hai đệ tử nhiều cá tính là Inzan Ien (Ẩn Sơn Duy Diễm, 1754-1817, người đã phục hưng chùa Zuiryuuji (Thụy Long Tự) ở Gifu) và Takushuu Kosen (Trác Châu Hồ Tiên, 1760-1833). Thiền phong của hai người đều có điểm độc đáo riêng. Inzan (Ẩn Sơn) thì cao vời phóng khoáng, còn Takushuu (Trác Châu) lại chi ly chặt chẽ. Tuy nhiên, họ đã dựng nên cơ sở đưa đến việc việc trường phái Hakuin hầu như độc chiếm tông Lâm Tế

Từ cửa Inzan đã xuất hiện Taigen Kôgen (Thái Nguyên Tư Nguyên, 1769-1837) và Tôrin Sôju (Đường Lâm Tông Thọ, ? - 1837). Takushuu có các đệ tử giỏi như Sozan Genkyô (Tô Sơn Huyền Kiều, 1799-1868) và Ryôchuu Nyoryuu (Lương Trung Như Long, 1793-1868). Ryôchuu trước kia là người của tông Hoàng Bá, sau đi theo Takushuu trên 10 năm và nhận pháp tự của thầy, sau về làm trụ trì đời thứ 33 của Manfukuji (Vạn Phúc Tự), ra sức bố giáo, phục hưng được chùa này. Vào thời điểm này thì thiền của Hakuin cũng đã thẩm thấu vào trong tông Hoàng Bá rồi. 

Sau đó, trong đám môn hạ của Taigen (Thái Nguyên) lại có Gizan Zenrai (Nghi Sơn Thiện Lai, 1802-1878) và Daisetsu Shôen (Đại Chuyết Thừa Diễn, 1797-1855). Tôrin (Đường Lâm) thì đào tạo được môn đệ như Settan Shôboku (Tuyết Đàm Thiệu Phác, 1812-73). Settan (Tuyết Đàm) đã giảng đạo ở nhiều chùa, chính yếu là Myôshinji, sau đó mới đến Daitokuji, Shôkokuji (Thánh Quốc Tự) cũng như Shôganji (Chính Nhãn Tự ở Kamo vùng Minô). Những thiền sư đứng ra cáng đáng thiền Lâm Tế từ thời Meiji về sau đều là môn đệ của các ông nói trên. 

Hệ Phổ Thiền Nhật Bản (3) 

1) Hệ phái Kanzan (Quan Sơn, gốc Lâm Tế) A: Từ Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền) qua Tokuhô Zenketsu (Đặc Phương Thiền Kiệt). Kanzan là chi lưu của Nanpo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh), tăng Nhật Bản du học nhà Tống (Tống Thiền): 

1 Tiết Nham Đạo Viên -> 2 Đại Mộng Tông Nhẫn ->3 Tuyệt Đồng Bất Nhị -> 4 Tượng Hải Huệ Đam (Trạm). 

Đồng 2 Hiền Nham Thiền Duyệt ->3 Định Sơn Tịch Nhi. Đồng 3 Kogetsu Zenzai (Cổ Nguyệt Thiện Tài) -> 4 Bắc Thiền Đạo Tế -> 5 Nguyệt Thuyền Thiền Huệ -> 6 Tiên Nhai Nghĩa Phạm. Đồng 6 Thanh Chuyết Chu Trừ -> 7 Thanh Lâm Âm Trúc -> 8 Cự Hải Từ Hàng -> 9 Tiều Ẩn Tông Bật. Đồng 8 Đông Hải Xương Tuấn. Đồng 4 Hải Môn Nguyên Đông -> 5 Thông Huyền Nguyên Thông. Đồng 4 Lan Sơn Chính Long -> 5 Đại Đạo Huệ Vân

2) Hệ phái Kanzan (Quan Sơn, gốc Lâm Tế) B: Từ Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền) qua Toyô Eichô (Đông Dương Anh Triều). Kanzan là chi lưu của Nam Phố Thiệu Minh, tăng Nhật Bản du học nhà Tống (Tống Thiền): 

1 Ngu Đường Đông Thực -> 2 Nhất Ti Văn Thủ

Đồng 2 Chí Đạo Vô Nan -> 3 Đạo Kính Huệ Đoan -> 4 Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin Ekaku) -> 5 Đông Lĩnh Viên Từ -> 6 Đại Quan Văn Thù. Đồng 5 Toại Ông Nguyên Lô -> 6 Xuân Tùng Thiệu Chu. Đồng 5 Dương Châu Thiền Thứ ->6 Hải Môn Thiền Khác.Đồng 5 Đại Hưu Huệ Phưởng. Đồng 5 Thiên Nghê Huệ Khiêm. Đồng 5 Nga Sơn Từ Trạo -> 6 Ẩn Sơn Duy Diễm. Đồng 6 Trác Châu Hồ Tiên. 

a) Nhánh Ẩn Sơn Duy Diễm (Inzan Ien): 

1 Ẩn Sơn Duy Diễm (Inzan Ien) -> 2 Thái Nguyên Khổng Nguyên -> 3 Đại Chuyết Thừa Diễn -> 4 Độc Viên Thừa Chu (Ogino) [15] -> 5 Sài Sơn Huệ Ôn (Ashikaga). 

Đồng 2 Nghi Sơn Thiện Lai -> 3 Việt Khê Thủ Khiêm (Shaku) -> 4 Hổ Quan Tông Bổ (Kobayashi). Đồng 4 Hòa Sơn Huyền Cổ (Nishiyama). Đồng 3 Trích Thủy Nghi Mục -> 4 Yamaoka Tesshuu (Sơn Cương Thiết Chu). Đồng 4 Điểu Vĩ Đắc Am. Đồng 4 Thanh Chuyết Nguyên Tịnh (Seki) -> 5 Mục Ông Nguy Tông (Seki) -> 6 Tinh Canh Tổ Anh (Hirata). Đồng 6 Đích Ông Tào Huyền (Ômori). Đồng 5 Thái Thất Vô Văn (Yamada). Đồng 4 Nga Sơn Xương Trinh (Hashimoto) -> Độc Sơn Huyền Nghĩa (Hashimoto). Đồng 3 Hồng Xuyên Tông Ôn (Imakita) -> 4 Hồng Nhạc Tông Diễn (Shaku) -> 5 Tiệt Ông Tông Hoạt (Shaku). Đồng 5 Nghiêu Đạo Huệ Huấn (Furukawa) -> 6 Biệt Phong Tông Nguyên (Asabina). 

Đồng 2 Đường Lâm Tông Mô -> 3 Tuyết Đàm Thiệu Phác -> 4 Thái Long Văn Vị (Nakajima). 

b) Nhánh Takushuu Kosen (Trác Châu Hồ Tiên): 

1 Trác Châu Hồ Tiên (Takushuu Kosen) -> 2 Diệu Hỉ Tông Tích -> 3 Già (Ca) Lăng Thụy Già (Ca) -> 4 Đàm Hải Huyền Xương -> 5 Độc Đam (Trạm) Tạp Tam (Toyoda) -> 6 Vụ Hải Cổ Lượng (Kôno) -> 7 Văn Minh Toàn Khánh (Shibayama = Sài Sơn) -> 8 Văn Phong Thái Thạch (Nakamura =Trung Thôn). 

Đồng 2 Bồng Châu Thiền Miêu. 

Đồng 2 Thạch Ứng Tông Mân. 

Đồng 2 Hải Sơn Tông Khác -> 3 Khuông Đạo Huệ Đàm -> 4 Cửu Phong Nhất Tinh (Bessho). 

Đồng 2 Xuân Ứng Thiền Duyệt -> 3 Thúy Nham Văn Chu -> 4 Khoan Châu Huyền Chính (Hanazono) -> 5 Du Thiền Huyền Đạt (Tôkai). 

Đồng 2 Tô Sơn Huyền Kiều -> 3 La Sơn Nguyên Lịch -> Đặng Châu Toàn Trung (Nakahara). Đồng 3 Già (Ca) Sơn Toàn Lăng (Kôno) -> 4 Tông Bàn Huyền Phương (Kenshô) -> 5 Huyền Phong Nghi Hùng (Yamamoto). 

Đồng 2 Nguyệt San Cổ Kính -> 3 Tuyết Hàng Tư Thuần. 

Đồng 2 Lương Trung Như Long (sau thuộc vào hệ Hoàng Bá sau khi học với Thạch Tuyền Diễn Trừng) -> 3 Vạn Trượng Ngộ Quang. Đồng 3 Quan Luân Hành Thừa. 

3) Tông Ôbaku (Hoàng Bá Nhật Bản, gốc Lâm Tế nhưng ghép tư tưởng Niệm Phật vào Thiền): do Ingen Ryuuki (Ẩn Nguyên Long Kỳ, tăng đời Minh sang Nhật) (Minh Thiền): 
1 Ẩn Nguyên Long Kỳ (Ingen Ryuuki) -> 2 Độc Khổng Tính Sư -> 3 Thiết Thuyền Đạo Ngạn -> 4 Huyền Lĩnh Nguyên Mân -> Khôi Sơn Tịnh Truân -> Thạch Tuyền Diễn Trừng (thầy Lương Trung Như Long của phái Quan Sơn gốc Lâm Tế). 

Đồng 2 Huệ Môn Như Bái -> 3 Cao Tuyền Tính Đốn -> 4 Liễu Ông Đạo Giác. Đồng 3 Thanh Tư Chân Tịnh

Đồng 2 Long Khê Tính Tiềm. 

Đồng 2 Mokuan Shôtô (Mộc Am Tính Thao) -> 3 Thiết Ngưu Đạo Cơ -> 4 Siêu Tông Như Cách -> 5 Thực Đường Tịnh Cực. Đồng 3 Triều Âm Đạo Hải -> 4 Phượng Sơn Huyền Thụy. Đồng 3 Duyệt Sơn Đạo Tông -> 4 Ất Đĩnh Nguyên Tân. Đồng 3 Vân Nham Đạo Nguy. Đồng 3 Thiết Văn Đạo Trí. Đồng 3 Thiết Nhãn Đạo Quang

Đồng 2 Tức Phi Như Nhất -> 3 Thiên Ngốc Tính Án (?). Đồng 3 Quế Nham Minh Tràng. 

Đồng 2 Độc Đam (Trạm) Tính Oánh -> 3 Duyệt Phong Đạo Chương

Đồng 2 Nam Nguyên Tính Phái -> 3 Thiết Mai Đạo Quang -> 4 Mai Phong Nguyên Ngọc. 

Đồng 2 Đại Mi Tính Thiện -> 3 Mai Lĩnh Đạo Tuyết -> 4 Thiết Tông Nguyên Mạch. 

Địa lý Thiền Nhật Bản (3): 

Miền đông đảo Honshuu: 

Trước kia, chỉ có chùa nằm chung quanh vùng Kamakura gần Tôkyô bây giờ. Thế nhưng vào thời kỳ này đã có chùa thiền (Thụy Nham Tự, cải tông từ Tendai) mở ở tận vùng Đông Bắc (Sendai, tỉnh Miyagi). Tính từ phía bắc trở xuống: 

Thụy Nham Tự (Vân Cư trụ trì), Ngũ Hợp Am (Lương Khoan), Kỳ Viên Tự (Tâm Việt), Chính Thụ Am (Đạo Kính), Đại Thừa Tự (Nguyệt Chu, Vạn Sơn), Đại Trung Tự, Thụy Long Tự (Ẩn Sơn, Đường Lâm), Long Ổn Tự, Chính Nhãn Tự (Tuyết Đàm), Tổng Ninh Tự), Hương Tích Tự (Phong Ngoại), Ân Chân Tự (Linh Mộc Chính Tam), Trạch Long Tự (Đông Lĩnh), Tùng Âm Tự (Bạch Ẩn, Toại Ông), Tào Động Tông Đông Hải Đại Tăng Lục, Khả Thụy Trai, Kiến Trường Tự (Hải Môn), Viên Giác Tự (Thành Chuyết). 

Riêng vùng Edo: 

-Furegashira (1 chùa đại diện) của phái Ngũ Sơn: Kim Địa Viện (Sùng Truyền trụ trì). 

-Furegashira (3) của phái Tào Động: Tổng Tuyền Tự, Thanh Tùng Tự (có học liêu Sư Tử Quật), Tuyền Nhạc Tự (có học liêu). 

-Furegashira của phái Daitokuji: Đông Hải Tự (Trạch Am). 

-Furegashira (4) của phái Myôshinji: Tùng Nguyên Tự, Đông Thiền Tự, Lân Tường Viện (Nga Sơn), Hải Thiền Tự

-Furegashira (2) của phái Hoàng Bá: Thụy Thánh Tự, Hải Phúc Tự. 

Quang Lâm Tự (Bàn Khuê), Trùng Tuấn Viện, Liễu Tâm Viện ( Linh Mộc Chính Tam), Cát Tường Tự (Vạn Sơn, Chỉ Nguyệt, Hạt Đường). 

Kansansetsu (3 chùa giám sát) của Tào Động Tông: Hạ Tổng Tổng Ninh Tự, Hạ Dã Đại Trung Tự, Vũ Tàng Long Ẩn Tự (nằm chung quanh tỉnh Chiba ngày nay). 

Miền tây đảo Honshuu: 

Long Môn Tự (Thiên Quế), Bảo Phúc Tự (Tượng Hải) 

Riêng vùng Kyôto: 

Nam Thiền Tự -Kim Địa Viện (Sùng Truyền trụ trì), Đông Phúc Tự (Định Sơn), Tướng Quốc Tự (Đại Chuyết), Đại Đức Tự (Trạch Am), Diệu Tâm Tự (Ngu Đường, Vô Trước, Trác Châu, Tô Sơn, Nghi Sơn), Đại Vân Tự (Thiên Quế), Vĩnh Nguyên Tự (Nhất Ti), Thiền Định Tự (Nguyệt Chu, Vạn Sơn), Vạn Phúc Tự (Ẩn Nguyên, Mộc Am, Lương Trung), Phổ Môn Tự (Long Khê, Ẩn Nguyên), Hưng Thiền Tự (Nguyệt Chu, Vạn Sơn). 

Các đảo lớn phía nam: 

Vẫn thưa thớt, chỉ có Nagasaki là có nhiều chùa lớn (4). 

-Đảo Shikoku: 

Như Pháp Tự (Bàn Khuê) 

-Đảo Kyuushuu: 

Phúc Tụ Tự (Cổ Nguyệt), Tam Phúc Tự gồm Hưng Phúc Tự, Phúc Tế TựSùng Phúc Tự , Đại Quang Tự (Cổ Nguyệt). 

 


 
[1] - Trên chuông chùa Hôkôji (Phương Quảng Tự) ở Kyôto của dòng họ Toyotomi có khắc 8 chữ "Quốc gia an khang, quân thần phong lạc". Sư Suuden (Sùng Truyền), mưu thần của Ieyasu chủ trương rằng minh văn này xẻ tên Ieyasu ra làm đôi là có ý bất kính và nguyền rủa đối với Ieyasu (GiaKhang).Thần phong lại là hai chữ trong tên của Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát). Đây chính ra chỉ là cách thầy trò Ieyasu tạo ra bằng cớ để diệt trừ đối lập. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo! 

[2] - Xúc đầu. Xúc (fure) = tiếp xúc, liên lạc. Đầu (kashira) = trùm, kẻ đứng ở địa vị cao nhất. Khi đọc ghép thành ra furegashira. 

[3] - Nhận pháp tự bằng cách bái tháp nghĩa là nhận từ một vị thầy đã chết rồi bằng cách làm lễ trước mồ. 

[4] - Zatsugaku (tạp học) là cái học đa tạp, không nằm trong một hệ thống nào. 

[5] - Niô = Nhân Vương, tên hai vị thần hộ pháp, bảo vệ lối vào chùa. 

[6] - Nguyên chữ bất sinh do từ "bất sinh bất diệt", một nguyên lý của đại thừa. Bất sinh cũng là tâm cảnh Niết Bàn (theo TĐPH nhóm Đạo Uyển).Đó là quan niệm xem "tất cả mọi vật đều chưa hề sinh ra mà đâu vẫn ra đấy" 

[7] - Chiên Đàn Lâm = rừng cây đàn hương. Chiên đàn (candana) là một tên khác của bạch đàn

[8] - Gakusô (học tăng) có hai nghĩa. Nghĩa lịch sử khi nói về các tăng sĩ sang Trung Quốc tu học đặc biệt vào thời Đương, nghĩa thứ hai nói về các tăng sĩ học giả

[9] - Cổ triệt: vết bánh xe cũ, ý nói phương pháp tiền nhân đã sử dụng

[10] - Động Sơn ngũ vị: 5 địa vị của sự giác ngộĐộng Sơn Lương Giớiđệ tửTào Sơn Bản Tịch đã nêu ra. Đó là Chính trung thiên, Thiên trung chính, Chính trung lai, Thiên trung chí và Kiêm trung đáo. Ngũ vị của tông Tào Động sau cũng đã được phái Lâm Tế hấp thụ. Ngoài ra ngũ vị còn tương xứng với tứ pháp giới của tông Hoa Nghiêm. Nó là một công thức biện chứng tuyệt hảo của Thiền Tông Trung Quốc ( tóm tắt theo TĐPH nhóm Đạo Uyển). 

[11] - Thuyết do nhà thiên văn Hy Lạp Aristarchos (320TTC-250TTN) và sau đó Copernic chủ trương, cho rằng mặt trời là một định tinh, trái đất và các ngôi sao khác chạy quanh nó. 

[12] - Thiên nhân = một nghìn người nhưng nói bóng là nhiều người. Kết chế = hội họp, kết hợp thành đoàn. Như vậy, thiên nhân kết chế đối lập với mật tham một thầy một trò. 

[13] - Nguyên văn "thiền bệnh" nghĩa là tham thiền với những tư duy không đúng đắn hay tu hành quá độ

[14] - Những chữ Hán-Nhật được chép ra đây chỉ có mục đích trưng dẫn, phải xem nội dung từng cuốn mới hiểu được. Không nên hiểu bằng cách dựa theo nghĩa chữ Hán thông thường. 

[15] - Tên Nhật của thiền sư. Vì ông tên Ogino (Địch Dã) nên có thể gọi bằng cách thứ hai là Địch Dã Thừa Chu (Ogino Jôshuu) thay cho Độc Viên Thừa Chu (Dokuen Jôshuu). 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10338)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34408)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9634)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9797)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20449)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8755)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8863)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12109)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8996)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9260)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9895)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10619)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12475)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9335)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9193)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9318)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10455)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21998)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16604)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9536)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10191)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8832)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8626)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9132)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9605)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8613)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9447)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8357)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8469)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10186)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23628)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9573)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9002)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8339)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8530)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7972)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8800)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10060)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8643)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8624)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30058)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24169)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9270)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9633)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9502)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9069)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28204)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8884)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9657)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9343)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30895)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27121)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32712)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34001)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12467)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58679)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10655)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13940)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14209)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10763)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28150)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23274)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant