Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Dừng Lại, Quán SátBuông Xả

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11584)
5. Dừng Lại, Quán Sát và Buông Xả

Upasika Kee Nanayon (K.Khao-suan-luang)
ĐƠN GIẢNTHUẦN KHIẾT
Tổng Hợp Các Bài Giảng của Nữ Thiền Sư Thái Lan

Chương 3

Đi Ngược Dòng

Dừng Lại, Quán SátBuông Xả

 Chúng ta nói đến vấn đề tu hành vì cần tự nhắc nhở là phải luôn đạt được kết quả ngày càng tốt hơn. Nếu không thảo luận về những vấn đề này, thì khi đối mặt với các tâm hành, ta thường tỏ ra yếu đuối, như chúng ta vẫn quen làm thế. Rèn luyện tâm tỉnh lặng cần nhiều thận trọng, vì bản chất của tâm là phóng túng và ngang ngược. Nó không dễ dàng chịu sự giám sát của chánh niệm tỉnh giác. Do đó chúng ta phải phát triển trí tuệ để kiễm soát tâm một cách thích hợp.

 Ðể đặt tâm dưới sự kiểm soát của chánh niệm tỉnh giác, chúng ta cần dừng lại và quán chiếu tâm, dừng lại và biết tâm. Rất khó cho ta biết tâm được tạo tác như thế nào, và nên hiểu tâm như thế nào, vì tâm thích lang thang tùy theo tâm hành dẩn dắt. Nếu ta muốn hiểu tâm rốt ráo, ta phải rèn luyện tâm thật nhiều. Học cách giám sát tâm đặt tâm dưới sự kiểm soát của chánh niệm tỉnh giác, cần nhiều thời gian.

 Ta phải dùng sức mạnh của sự quan sát và khả năng đánh giá. Nếu ta không duy trì sự quan sátđánh giá như là một phần trong việc tu hành thì tâm sẽ nhanh chóng luồn lách, lang thang đến bất cứ nơi nào vọng tưởng lôi kéo nó. Những sự phóng tâm này chỉ làm ta khổ và bất an. Ta không được lợi ích gì. Tâm chỉ đi tìm kiếm phiền não. Bất chấp ta thích hay không thích việc gì ta vẫn bám lấy chúng rồi biến chúng thành khổ. Mắt, tai cùng các căn môn khác là những cây cầu mà tâm vượt qua ngay giây phút mà ta nghe âm thanh, thấy hình sắc hay ghi nhận các sự xúc chạm giác quan khác. Ta có thể thủ thúc và kiềm chế các căn môn như thế nào để chúng phải khuất phục dưới sức mạnh của tâm chánh niệm? Ta phải quan sát những kết quả phát sinh do thấy và nghe trong chánh niệm. Nếu ta không sử dụng khả năng quan sátđánh giá, thì ta có khuynh hướng bám vào các cảm thọ do những điều tai nghe và mắt thấy mang đến. Sau đó ta phán đoán, đặt tên, suy tưởng nọ kia, rồi chấp vào những thứ đó với tâm yêu ghét cho tới khi tâm trở nên tán loạn.

 Hãy quan sát các cảm thọ phát sinh ở mỗi căn môn để thấy rằng chúng chỉ là những cảm thọ nảy sinh, đơn thuần thế thôi. Không phải là chúng ta cảm thọ những điều này. Mắt thấy sắc. Không phải là chúng ta thấy chúng. Ðó chỉ là sự thấy các hình sắc qua phương tiệnnhãn thức, đơn thuần thế thôi. Ngay lúc đó, chưa có việc phán đoán rằng cái thấy đó là tốt hay xấu. Chưa có bất kỳ tâm hành theo sau thọ căn. Ta chỉ quán sát cảm thọ đơn thuần và dừng lại ngay đó, để thấy các đặc tính của thọ khi nó hoại diệt hay được thay bằng một thọ mới. Ta tiếp tục quán sát sự hoại diệt của các thọ, tiếp tục quán sát cho tới khi ta thấy rằng đó chỉ là bản chất của mắt và của tai: ghi nhận các cảm thọ. Bằng cách này ta không bám vào chúng đến độ phải khổ ưu, phiền não như chúng ta vẫn thường làm.

 Nếu ta không thận trọng quán sát và thấy được sự sinh diệt tự nhiên này, ta có khuynh hướng đảo lộn mọi thứ lên. Chẳng hạn, khi mắt thấy, ta cho rằng ta thấy. Những cái ta thấy có thể làm ta vừa lòng, có thể không, làm ta vui hay khổ, nhưng ta vẫn chấp vào chúng cho tới khi chúng ô nhiễm tâm ta. Nếu ta không thận trọngquán sát thì mọi thứ xảy ra qua các căn môn sẽ biến thành các tâm hànhô nhiễm tâm. Ðiều này làm khổ khởi lên vì bất kỳ khi nào mắt thấy các hình sắc và tai nghe các âm thanh, sức mạnh của sự chấp thủ khiến ta không ý thức đến việc các pháp sinh, trụ, hoại diệt như thế nào.

 Làm sao ta có thể bắt đầu tự tháo gỡ khỏi những điều này để ta không còn chấp nữa? Làm sao ta có thể giữ chánh niệm trong lúc ta nhìn và nghe? Ta phải luôn quán sát tâm để thấy rằng, khi chánh niệm có mặt ngay giây phút ta thấy cảnh thì tâm có thể duy trì sự quân bình. Nó không vui hay buồn. Nếu ta có chánh niệm khi nghe âm thanh, thì ta có thể chắc rằng âm thanh đó không khiến tâm ta thoải mái hay phiền hà. Đối với việc ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm và ý nghĩ, cũng giống như thế. Ta phải tập trung vào tâm, vì đó là yếu tố đứng đầu, là điểm chính. Nếu ta tu tập chế ngự tâm, rồi thì, tự chính nó sẽ chế ngự các căn môn. Mắt sẽ được chế ngự khi thấy sắc: kết quả là cái nhìn sẽ trở nên ngắn hơn. Khi tai nghe âm thanh, tâm có thể duy trì sự quân bình khi nó tập trung cảnh giác vào sự sinh diệt của âm thanh, hay việc cảm thọ âm thanh khi âm thanh liên tục đến và đi. Ngược lại, nếu ta không phát triển phương cách này, mọi thứ trở nên hỗn độn. Tâm sẽ không có gì ngoài sự bám víungã tưởng, tạo tác ra bao khổ đau chỉ vì sự thiếu kiềm chế. Ðây là điều mà tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm.

 Đức tính phòng hộ các căn (indrīya-savara-sīla) ở một mức độ rất tinh tế của giới đức – và cũng là một đức tính rất hữu ích. Nếu ta phát triển được mức độ giới hạnh này, các mức độ khác trở nên trong sạch hơn. Nếu ta không tập chế ngự mắt, tai, mũi, vân vân thì ngũ giới, bát giới hay thập giới của ta khó mà vững chắc. Chúng sẽ bị ô nhiễm dễ dàng. Nếu mắt là cây cầu, không được chế ngự, thì nó sẽ hướng tâm ra bên ngoài. Và khi điều đó xảy ra thì việc phạm giới hạnh là điều dễ dàng nhất trên đời. Nếu ta để cho tâm quen chạy theo chuyện bên ngoài, thì mọi việc trở nên hỗn loạn. Sự hỗn loạn khởi đầu trong tâm, rồi tràn sang lời nói và hành động của ta, khiến ta nói và hành động trong sự sai lầm.

 Nếu ta giữ giới mà không chế ngự các căn thì giới của ta không thể trong sạch. Ðó là vì ta không quan tâm đến việc nhìn và nghe như thế nào, nên ta không thể biết tham, ái dục và uế nhiễm đã khởi lên như thế nào lúc mắt thấy sắc và tai nghe âm thanh. Thiếu sự chế ngự các căn là điều làm cho sự giữ giới không trong sạch. Ta tạo tác các vấn đề ở bên ngoài và điều này làm ô nhiễm thân và khẩu của ta. Do đó sự chế ngự các căn là đức tính giúp che lấp các khe hở trong tâm. Nếu ta phát triển đức hạnh này, lời nói và hành động của ta trở nên thiện hảo, đáng ngưỡng mộ - giống như các tu sĩ phòng hộ các căn rất nghiêm nhặt, không phóng tầm nhìn, không nhìn các đối tượng nguy hại cho tâm, không gắn bó với các hương vị qua sự xúc chạm của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các ngài quán sát sự hoại diệt của các hiện tượng thân và tâm để tâm của các ngài không bị xáo trộn bởi sự ưa ghét.

 Phần đông chúng ta không quan tâm đến việc tu tập chế ngự các căn, vì thế ta trở thành nạn nhân của dục lạc. Ta tự buông thả trong sự thích hay không thích hình sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm; vì thế tâm bị uế nhiễm khi, do ảo tưởng, nó sa vào sự hưởng thụ các thứ này. Dầu bị lừa dối như thế nào, ta vẫn không ý thức được việc gì xảy ra vì hương vị của các lạc thọ khiến ta muốn hưởng thụ thêm nữa. Ta chưa đủ tỉnh giác để thấy sự tai hại của chúng. Muốn buông bỏ điều gì, ta phải thấy sự tai hại của nó. Nếu ta chỉ tự nhủ mình buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ, ta không thể thật sự buông bỏ. Ta phải thấy sự tai hại của những thứ mà ta bám víu vào, rồi thì ta sẽ tự động buông bỏ - cũng như khi ta bốc phải lửa, khi thấy nóng, ta sẽ tự động buông xuống và không bao giờ dám đụng đến nó nữa. Ta chưa ý thức được cái nóng của lửa ái dục, nên ta vẫn còn ưa thích chúng lắm. Dầu mọi sự bám giữ, bản chất của chúng là phiền não, ta vẫn thấy đó là đúng. Dầu chuyện gì xảy ra, ta vẫn cứ bám giữ. Ðiều này đã trở thành bản tính thứ hai của ta. Ta không ý thức rằng ta đang nắm giữ lửa nên ta còn muốn thêm nữa. Ðây là lý do tại sao tâm ta chẳng bao giờ chán sự bám giữ.

 Khi ta không thể thấy khổ của ái dục thì làm sao ta có thể thấy được cái khổ của những điều vi tế hơn nằm yên dưới sâu, như là ngã tưởng. Ta vẫn bị quyến rũ bởi những miếng mồi bên ngoài qua các căn mắt và tai, vậy mà ta chưa ý thức được điều gì đang xảy ra. Những điều này giống như viên thuốc độc được bọc đường. Ta thấy viên thuốc ngọt. Ta nuốt độc dược, nuôi dưỡng tham ái, uế nhiễm gây bao khổ đau, phiền não, vậy mà ta không thấy chúng là khổ. Ta vẫn thưởng thức vị đường và còn muốn thêm nữa. Ðấy là vì tâm ta chưa bao giờ nhàm chán các dục lạc, chưa phát triển bất cứ tâm xả, bất cứ ý muốn được giải thoát nào. Tâm vẫn thích dầm mình trong dục lạc. Nếu có được dục lạc thì nó vừa lòng. Nếu không, nó bực tức, sân hận.

 Ngay cả những lạc thú bên ngoài vẫn gạt được ta. Nếu đạt được điều mong muốn, ta vui. Nếu không, ta chìm trong rối loạn. Nếu chưa được nếm đủ các lạc thú này, ta sẽ kêu ca rằng người khảc không thương cảm, không quan tâm đến ta. Ta cứ muốn hưởng thụ chúng mà không bao giờ biết đủ - như những con giòi bọ thích thú với mùi hôi thối mà không bao giờ biết chán. Hương vị của ái dục kích động tâm của tất cả các chúng sinh vì vậy họ muốn hưởng thụ nhiều hơn nữa. Các bậc Thánh cảm thấy nhờm gớm và không muốn tới gần, nhưng hạng phàm nhân thì lao tới, nuốt chửng chúng. Ðức Phật so sánh chúng sinh thích điều này với giòi bọ thích thú đồ hôi thối, hay như con rắn lọt xuống hầm phân, bị phủ đầy phân mà ta không thể tìm được chỗ nào trên thân nó không dính dơ để lôi nó lên. Ðức Phật hay dùng những so sánh như vậy để ta có thể thức tỉnh.

 Ðức Phật đã liệt kê nhiều sự so sánh như thế về các tai hại của dục lạc. Nếu muốn biết, hành giả có thể tìm coi trong tuyển tập các kinh. Những lời dạy của Ðức Phật có khi nhẹ nhàng, lôi cuốn, có khi là những lời khiển trách. Quý vị thiền giả nên đọc giáo lý của Ngài và suy gẫm về chúng, để không hiểu sai vần đề. Những lời dạy chạm đúng vào tật xấu của ta thì không ai trong chúng ta vừa lòng, vì ta không thích bị chỉ trích. Không thích bị khiển trách. Ta chỉ thích được khen, được ngưỡng mộ đến độ ta căng phồng niềm tự phụ. Nhưng các hành giả với chánh niệm tỉnh giác không muốn điều này chút nào. Các vị ấy muốn được nghe những lời chỉ trích, những lời khiển trách đầy xây dựng. Ðấy là ý nghĩa của việc có trí và tỉnh giác. Ta biết cách tiếp nhận sự chỉ trích với trí tuệ.

 Khi ta học giáo lý của Ðức Phật, ta nên suy gẫm về chúng. Đức Phật thường dạy dỗ, khiển trách các đệ tử của Ngài nhiều hơn là khen ngợi họ. Thái độ của ta có như vậy không? Ta chỉ thích được khen. Nếu bị chỉ trích, ta giận lên, cáo buộc người khác là có tà tâm. Thật là dở và đáng tiếc. Chúng ta có được giáo lý nhằm giúp đỡ ta, nhưng ta không sử dụng để quán chiếu bản thân. Trái lại, ta phê bìnhgiáo lý đó quá tiêu cực, quá nghiêm khắc. Kết quả là ta không hưởng được lợi ích từ những lời chỉ trích xây dựng. Nhưng những hành giả với chánh niệm tỉnh giác thì lại thấy khác. Họ thấy được nhiều lợi ích từ những lời dạy dỗ của các bậc thầy hơn bất kỳ thứ gì khác.

 Trẻ con không thích các thầy cô nghiêm khắc vì chúng ghét kỷ luật. Nhưng khi lớn khôn, chúng hiểu rằng kỷ luật là cách hay nhất để xây dựng cá tính con người. Cổ ngữ có nói: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, để nhắc nhở chúng ta không nên chiều theo sự vòi vĩnh của trẻ con, nếu không chúng sẽ trở nên vô tâm và thiếu trách nhiệm. Nếu ta nghiêm khắcrầy la khi chúng sai, chúng sẽ phát triển tinh thần trách nhiệm cao.

 Cho nên những người thông minh, hiểu biết thì thích được nghe lời phê bình xây dựng hơn là lời khen. Còn người ngu thì thích được khen hơn bị chê. Khi vừa bị phê bình là họ rất giận. Họ không hiểu giá trị của sự phê bình. Chẳng hạn có ai phê bình cái sai của ta: sai lầm đó là do ta không khéo, gây ra tai họa. Nếu ta được nhắc nhở để không làm điều sai, thì điều đó rất có ích cho ta. Giống như là người đó đã kéo ta ra khỏi khổ, khỏi lừa, khỏi địa ngục.

 Nhưng kẻ ngu thì sẽ chống lại người khéo nhắc nhở họ. Nếu khôn ngoan, họ đã cám ơn người nhắc nhở họ. Họ sẽ ghi nhớ lời khuyên đó trong lòng, không bao giờ quên. Nếu ta không nghĩ như vậy đối với lời phê bình, thì ta sẽ không bao giờ bỏ được thói quen cũ. Ta sẽ ngoan cố chấp theo cách làm cũ, thích hơn thua với người hơn là khắc phục tính chống đối của mình. Nếu ta không thể khắc phục tính đó, thì càng được khuyên bảo, ta càng thiếu kiềm chế -cuối cùng thì ta càng thiêu đốt mình hơn lên. Ta đem những lời chỉ dạy quí báu ra để làm hại mình. Đó là lý do tại sao ta phải lắng nghe kỹ những lời phê bình, để ta có được nhiều ích lợi từ đó.

 Các uế nhiễm, ái dụcbám víu mới tai hại làm sao! Mà ta luôn đầy ngã tưởng. Ta có thể làm gì để nó suy yếu đi? Chúng ta phải quay hướng vào bản tâm như thế nào để có kết quả, để không làm ô nhiểm tâm, không xáo trộn tâm. Ta phải sử dụng chính sự sáng suốt của mình – tâm chánh niệm tỉnh giác - để luôn quay nhìn vào nội tâm. Không ai có thể làm điều này cho ta. Chúng ta phải tự hiểu mình một cách rốt ráo.

 Hãy nghĩ tới pháp hành để tự giải thoát khỏi các uế nhiễm như là đào một ổ mối lớn để bắt con ác thú -như là con rắn- ẩn náu bên trong. Ta phải dùng cuốc xẻng bén nhọn nhất để bắt rắn. Tương tự, ngã tưởng của ta ẩn sâu bên trong. Ta phải dùng chánh niệm tỉnh giác, bén nhọn như cuốc xẻng, để tiến sâu vào. Nơi nào có ngã tưởng, hãy cố đào để bắt nó. Hãy lật nó ra để nhìn tận mặt, để xem cái ngã của ta thực sự ở đâu. Cố gắng quán sát sắc, thọ, tưởng, hành, thức – tất cả những thứ mà ta chấp chặt, không thể buông bỏ. Ta phải quán sát chúng như thế nào để biết được chúng? Chỉ bằng cách nhìn ra được sự vô thường của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu ta không hiểu điều này, thì không có cách nào ta có thể buông bỏ chúng vì ta sẽ tiếp tục nhận lầm chúng, nghĩ rằng chúng là thường hằng, là lạc, là tự ngã.

 Ðây là điều quan trọng. Ðừng vô tình bỏ qua. Vấn đề vô thường, khổ và vô ngã rất sâu sắc và tinh tế. Khi ta khởi sự từ bên ngoài tiến vào bên trong, sự quán chiếu của ta phải phát triển sâu sắc hơn và tinh tế hơn. Ðừng chấp nhận hiểu biết về vô thường, khổ, và vô ngã một cách hời hợt, vì như thế sẽ không tác động gì đến gốc rễ của ảo tưởngsi mê. Hãy xem phương cách thiền quán nào giúp ta đạt được kết quả trong việc hiểu biết về vô thường, khổ và vô ngã với chánh niệm tỉnh giác thật sự. Nếu ta thật sự biết với chánh niệm tỉnh giác thì tâm ta phải phát triển một cảm giác của saṃvega, của sự nhàm chán đối với vô thường, khổ và vô ngã của các hiện tượng tâm sinh lý, của ngũ uẩn -nói cách khác, của thân và tâm. Sau đó tâm sẽ tháo bỏ sự chấp thủ. Nhưng nếu sự hiểu biết của ta chưa thực sự chân chính, ta sẽ tiếp tục chấp thủ một cách mù quáng, cố biến mọi thứ thành thường hằng, lạc, và có ngã.

 Hãy quán chiếu để có thể biết sự vật như chúng là. Lý do duy nhất khiến chúng ta cố gắng giữ tâm yên lặng hoặc hành thiền không gì ngoài điều này: thấy được tính vô thường, khổ và vô ngã của các uẩn, của các yếu tố: đất, nước, lửa, gió, không gian và thức – hoặc các căn: mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Ta không tu hành chỉ để được thoải mái, an lạc khi tâm tịnh. Ta phải quán sátđánh giá sự vật để thấy chúng rõ ràng đến độ ta có thể buông bỏ chúng. Lúc đó tâm sẽ không còn bất cứ cảm giác gì về tự ngã. Dầu ta có trải nghiệm sự trống không này chỉ trong chốc lát, thì cũng đáng công. Hãy duy trì ý thức của ta về kinh nghiệm đó trong tâm làm vốn cho sức mạnh liên tục trong việc tu tập - còn tốt hơnđể tâm lang thang nghĩ về việc khác.

 Khi ta tiếp tục rèn luyện tâm ngày này qua ngày khác, như ta đang làm nơi đây, ta thấy rằng khi ta ngủ và thức dậy vào buổi sáng, sự tỉnh thức của ta trở nên liên tục - ngày càng liên tục, tới độ tâm không còn lang thang như trước đó. Tâm ngày càng trụ nơi thân trong giây phút hiện tại. Bất cứ điều gì khởi lên, ta có thể quán chiếu để xem có phần nào của nó là vững chắc hay thường hằng. Dù đó là hiện tượng tâm hay sinh lý (thân) thì có phần nào là vững bền hay thường hằng không? Khi thấy rằng không có gì là vững chắc hay thường hằng trong chúng, rằng chúng không ngừng chuyển đổi, thì ta sẽ nhận thức được rằng tính chất của vô thường là khổ - và rằng trong tính vô thường là khổ này, không có bất kỳ cái ngã nào trong đó.

 Chúng ta cần quán sát rõ ràng các pháp theo cách này. Không phải vô thường là một việc, phiền não là khác và vô ngã là khác nữa. Ta cần quán niệm để thấy rõ ràng cả ba tính chất này đều cùng có mặt trong mọi thứ. Nếu ta không thấy điều này rõ ràng với chánh niệm tỉnh giác thì ta chưa thực sự có trí tuệ. Dầu ta có thể giải thích sự việc đúng, nhưng tâm ta vẫn không thấu hiểu. Con mắt tâm ta nhắm lại và ở trong tăm tối. Khi có trí tuệ thật sự, thì phải có tâm ly thambuông xả. Tâm sẽ có thể buông mọi chấp thủ.

 Rồi quán sát tâm vào lúc đó. Ta sẽ thấy tâm rỗng không.

 Hãy quán sát tâm ngay bây giờ. Khi tâm ở trạng thái quân bình, không bị rối loạn, nó rỗng không ở một mức độ. Khi ta quan sát tâm ở trạng thái bình thường, khi nó không bám vào bất cứ điều gì, thì nó không có bất cứ cảm giác gì về ngã. Chỉ có sự tỉnh giác, đơn thuần, không có bất kỳ sự phán đoán, đặt tên nào như là “ta” hay “của ta”. Hãy ghi nhận ngay bây giờ tâm rỗng không như thế nào vì nó không có sự chấp thủ vào “cái ta” hay “của ta”.

 Nếu không hiểu được điều này, ta sẽ không thể khám phá được các mức độ sâu xa hơn của sự rỗng không - hoặc ta đi và tìm tâm rỗng không bằng những cách khác, mà tất cả đều không đúng. Sự rỗng không mà ta tìm kiếm đến từ sự buông bỏ qua việc thấy được tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Ở mức độ này, ta phải nỗ lực lặp đi lặp lại như thế. Ta không cần phải để tâm đến bất cứ vấn đề gì khác, vì càng chú ý đến nhiều vần đề, ta sẽ càng tán loạn. Chú tâm vào một vấn đề, một sự việc, và cứ quan sảt nó cho đến khi nó trở nên rõ ràng trong tâm. Lúc tâm trở nên rõ ràng là lúc nó sẽ có thể nới lỏng sự chấp thủ. Tâm sẽ có thể buông bỏ. Trở nên rỗng không. Chỉ thế cũng đủ để dập tắt khổ đau, phiền não trong đời sống hàng ngày của ta. Chúng ta không cần phải đọc hay nghiên cứu nhiều điều. Chỉ cần quán sát tâm ở góc cạnh này -sự sinh, trụ và hoại diệt. Quán sát như thế cho đến khi rõ ràng và tâm trở nên an trụ vững chắc trong tỉnh giác. Khi tâm tỉnh thức, nó sẽ buông xả. Khi ấy nó sẽ trở nên rỗng không.

 Tóm lại: hãy cố gắng quán sát và đánh giá tâm cẩn thận, rồi tâm sẽ trở nên rỗng không một cách dễ dàng nhất. Hy vọng rằng điều đơn giản này sẽ giúp các hành giả thấy đúng sự thật bên trong tâm mình hầu gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong mọi lúc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10315)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11175)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 11004)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11232)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11294)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14300)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12508)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26383)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11730)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29306)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11687)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10805)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11125)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10988)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10809)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11347)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10801)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12276)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11313)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10089)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11421)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13441)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11295)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11504)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12720)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13808)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13219)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12836)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12191)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30177)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38180)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24948)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10989)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11773)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10695)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11240)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11557)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12935)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12134)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11355)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10244)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11830)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11225)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10915)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13102)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10215)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10899)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10961)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14558)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10710)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 22005)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12095)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11463)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30220)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19623)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20606)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12597)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12581)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21226)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13281)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14497)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30471)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28056)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28401)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20997)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28718)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27266)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22003)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21520)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26265)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21676)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23459)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26429)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23261)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19872)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21197)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20015)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15447)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39299)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25706)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14151)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26118)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22532)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29175)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22590)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22929)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13228)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23213)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13205)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 29003)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14280)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26290)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33275)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35612)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8675)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13351)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30684)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22169)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant