Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đản sinh của Đức Phật

27 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10656)
Đản sinh của Đức Phật

ĐẢN SINH CỦA ĐỨC PHẬT

Kiêm Đạt

Dẫn nhập

Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên việc lưu lại lịch sử Đức Phật rất khó chính xác. Tuy nhiên, không vì thế blankchúng ta không khẳng định được những nét cơ bản hợp lý trong lịch sử cuộc đời Ngài. Những cứ liệu lịch sử do các nhà khoa học chứng minh thì đã rõ, nhưng những truyền thuyết dân gian cũng không thể chối bỏ, bởi truyền thuyết cũng phần nào dựa trên những yếu tố cơ bản có thật để xây dựng. Những tình tiết dù không có thật nhưng cũng nói lên, phản ánh được tinh thần của vấn đề. Con người không thể bảo rằng cái gì chưa chứng minh được thì điều ấy là không có thật. Ngày nay, khi mà khoa học chưa thể tìm ra một cách đầy đủ về cuộc đời Ngài, thì truyền thuyết là những nét chấm phá để chúng ta có thể dựa vào đó mà hoàn thiện hình ảnh một con người vĩ đại đã mang lại cho nhân loại sự độc đáo về tư duy, về triết học; mang lại cho những người quan tâm đến đời sống tâm linh một con đường an lạc, giải thoát siêu việt, và thiết thực nhất là mang lại cho xã hội một nền tảng đạo đức cao cả về lòng từ bi, vị tha vô lượng. Có khá nhiều sử sách ghi chép khác nhau về năm sinh, năm xuất gia của Đức Phật. Điều này có nhiều nguyên do (do quan niệm, do cách suy luận, do dựa vào nhiều cứ liệu lịch sử khác nhau...) nhưng nguyên do cơ bản nhất có lẽ là xuất phát từ đặc điểm tư duy của người Ấn Độ. Người Ấn xưa không đặt nặng vấn đề thời gian, chính vì vậylịch sử Ấn Độ xưa thường không chú trọng việc ghi chính xác ngày tháng.“... Người Ấn chú ý đến những điều giáo huấn, nghi thức hơn là tính chính xác của lịch sử” (Nguyễn Tấn Đắc - Văn hóa Ấn Độ). Tuy nhiên, dù chưa xác định chính xác niên đại, thì năm sinh của Đức Phật - theo một số sách sử nghiên cứu, được nhiều ý kiến đồng tình, ghi lại - cũng chỉ dao động trong vòng khoảng 100 năm. Do vậy, chúng ta có thể chấp nhận được, vì điều này không ảnh hưởng đến hệ thống tư tưởng giáo lý của Ngài, bởi trong vòng một thế kỷ, hệ tư tưởng con người không có sự khác biệt nhiều.

Về niên đại

Ða số sử gia Âu châu nghiên cứu Ấn Ðộ cho rằng năm 563 trước CN là năm sinh của đức Phật và cũng là niên đại sớm nhất được xác nhận. Niên đại ấy được tính toán cách nào và khả năng sai lạc lớn đến mức nào?

a) Vì sử sách cổ Ấn Ðộ chỉ ghi các khoảng cách giữa các sự kiện mà không ghi niên đại của các sự kiện ấy như các sử sách về sau, cho nên muốn xác định niên đại trong sử Ấn Ðộ cần phải thỉnh cầu đến các sử gia Hy lạp. Các quan hệ Ấn - Hy phát triển là do kết quả chiến dịch Ấn Ðộ của Ðại Ðế Alexander (327 trước CN). Vào khoảng năm 303 trước CN, Hoàng đế Ấn Ðộ Candragupta Maurya (hay Candagutta Moriya, triều Khổng Tước) đạt được một thỏa hiệp về lãnh thổ và mở màn quan hệ ngoại giao với vị cựu đại tướng của vua Alexander là Seleukos Nikator hiện thời cai trị thành Babylonia. Qua các báo cáo của sứ thần Hy lạp là Megasthenes được bổ nhiệm đến thủ đô Pàtaliputta (Patna ngày nay), vua Candragupta dần dần được các sử gia Hy Lạp biết rõ qua danh hiệu Sandrokottos trong tiếng Hy lạp, và nhờ các sử gia này, chúng tathể tính niên đại ngài lên ngôi vào năm 321 trước CN.Niên đại này còn cho chúng ta xác định các niên đại của chuỗi sự kiện liên tục được liệt kê trong sách sử ký tiếng Singhala là Dìpavamsa (Ðảo Sử) và Mahavamsa (Ðại Sử) khoảng thế kỷ thứ tư đến thứ sáu CN. Theo các sách này, (Dv5.100; Mhv 5.18), vua Candragupta trị vì hai mươi bốn năm (đến 297), hoàng nam kế vị ngài là Bindusàra (Tần-đầu-sa-la) trị vì hai mươi tám năm (đến 269), tiếp đó là khoảng bốn năm trước khi Asoka, con vua Bindusàra, lên ngôi bằng cách tiêu diệt tất cả hoàng gia huynh đệ và tự làm lễ quán đảnh phong vương (Dv 6.21; Mhv. 5.22). Như vậy biến cố này có lẽ đã xảy ra vào năm 265 trước CN. Ta có thể nhìn lui về ngày đức Phật đản sinh dựa vào lời xác nhận trong cả hai sách sử ký này (Dv 6.1; Mhv 5.21) rằng vua Asoka lên ngôi hai trăm mười tám (218) năm sau khi đức Phật diệt độ (Bát Niết-bàn). Sự kiện này do vậy được ghi vào năm 483 trước CN. Và vì Bậc Ðạo Sư sống đến tám mươi tuổi, năm đản sinh của ngài nhằm vào năm 563 trước CN. Mặc dù con số hai trăm mười tám năm giữa thời đức Phật diệt độ và vua Asoka tức vị được xem là đáng tin cậy, cách tính toán này cũng có nhiều nhược điểm. Về một phương diện, các năm trị vì của vua chúa thường được làm tròn cho chẵn số, và một phương diện khác, ta không nên bỏ qua sự kiện là trong sách Purànas (Chuyện Cổ Nhân) cho rằng vua Bindusàra chỉ trị vì khoảng hai mươi lăm năm. Như vậy cách tính toán dựa trên các sử ký cần được kiểm tra lại từ nhiều nguồn khác nữa.

b) -Một nguồn thông tin khác do các sắc dụ của hoàng đế Asoka cung cấp, các sắc dụ này được hoàng đế Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái Thiện Kiến, tức A-dục) truyền khắc lên đá và đặc biệt truyền dựng thạch trụ khắp đế quốc vĩ đại của ngài. Sắc dụ trên thạch trụ số XIII, ghi ngày chinh phục đẫm máu nước Kalinga (Orissa) của vua Asoka tám năm sau khi ngài đăng quang, và trụ này có lẽ được xây dựng mười hai năm sau biến cố ấy, nêu danh tánh năm vị vua không phải người Ấn Ðộ mà hoàng đế Asoka đã tiếp kiến, đó là: Antiochus II của nước Syria, Ptolemy II của Ai Cập, Antigonus của Macedonia, Magas của Cyrene và Alexander của Epirus. Niên đại của các vua này đều được biết rõ, và năm gần nhất các vua này vẫn còn sống là 258, như vậy đó cũng có thể là năm gần nhất của sắc dụ này. Tính lùi lại mười hai năm sau ngày vua Asoka lên ngôi, cọng thêm 218 năm được nêu trong các sử ký, ta đạt con số 488 trước CN dành cho năm đức Phật tịch diệt và năm 568 dành cho năm đản sinh của đức Phật. Một điểm sai lạc có thể thấy ở đây nằm trong khoảng thời gian giữa năm đăng quang của hoàng đế Asoka và năm ban hành sắc dụ, khoảng ấy có thể hơi ít hơn mười hai năm.

c) Các sử gia Trung Hoa cũng hỗ trợ một phần qua sách "Ðiểm Sử Ký" của Quảng Châu, sách này trình bày rõ mỗi điểm tượng trưng một năm sau thời đức Phật diệt độ. Xuống đến năm 489 CN, sách này nêu ra 975 điểm, tức là đặt thời đức Phật diệt độ vào năm 486, và đản sinh vào năm 566 trước CN. Dầu tính cách chính xác trong sử sách của người Trung Hoa đáng tin cậy đến đâu chăng nữa, thì cũng không phải là không có sai lầm, nhất là vì đạo Phật đến Trung Quốc khá trễ và các sử gia Trung Hoa đã không khởi công viết sử ký ngay khi bậc Ðạo Sư Ấn Ðộ tịch diệt.

d) Ta cũng có thể xem xét truyền thống Kỳ-na giáo. Vị tổ sáng lập đạo này là Jina (Thắng giả) hay Mahàvira (Ðại Hùng), người đồng thời với đức Phật, sống đến bảy mươi hai tuổi và được Kinh Ðiển Phật giáo nhắc đến qua danh hiệu Nigantha Nàtaputta( Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).

Các học giả Âu Châu thường ghi đạo sư Mahàvira mất năm 476 trước CN theo lời tuyên bố của Hema Candra, một tu sĩ Kỳ-na (thế kỷ 12 sau CN) rằng sự kiện vua Candragupta Maurya lên ngôi (năm 321 trước CN) xảy ra cách 155 năm sau khi tổ sư Mahàvira tịch diệt (Nirvàna). Nhưng các học giả đạo Kỳ-na lại tranh luận sự chính xác của con số này và nêu ra điểm sai lầm đã được thừa nhận của Hema Candra và nhiều đoạn trong kinh điển Kỳ-na đã đặt con số 215 năm giữa cuộc chinh phục vương quốc Avanti của vua Candragupta (312 trước CN) và sự từ trần của tổ sư Mahàvira. Cách tính này sẽ đặt sự kiện tổ Mahàvira tịch vào năm 527 trước CN. Năm này được xem là khởi điểm của biên niên sử đạo Kỳ-na (sử này chỉ mới được khai sinh sau CN) .

Giá trị tư liệu về đản sinh

Thời gian gần đây, nhiều học giả đã nỗ lực xây dựng lại cuộc đời Đức Phật lịch sử – bậc Thánh Triết của dòng họ Thích-ca (‘Saakyamuni). Tác phẩm "Cuộc Đời Đức Phật qua Truyền Thuyết và Lịch Sử" (The Life of the Buddha as Legend and History) của ông E. J. Thomas (1927) là quyển cổ điển nhất. Một tác phẩm uyên bác quý báu thứ hai là của Tỳ-kheo ~Nyaa.namoli. "Cuộc Đời Đức Phật" (The Life of the Buddha) (1972). Tác phẩm này bao gồm những bản dịch chọn lọc từ kinh điển Paali và các bản sớ giải đã được sắp xếp và xác định tác giả, chẳng hạn như được những vị đệ tử trực tiếp của Đức Phật như Ngài A-nan-đa (AAnanda), Ưu-ba-ly (Upaali) trùng tuyên, hoặc các bản giải thích của những nhà sớ giải truyền thống. Khi làm việc với các tham khảo liên hệ đến các sự kiện lịch sử quý hiếm này, một cách khác của việc xây dựng lại cuộc đời Đức Phật là phải chú ý nghiêm túc đến những tư tưởng triết học mà Ngài đã trình bày, và làm thế nào để phản ánh những triết lý ấy qua đời sốnghạnh nguyện của Ngài. Một nỗ lực như vậy đã được thể hiện qua tác phẩm Con Đường Sĩ-Đạt-Ta (Siddhatha): Cuộc Đời Đức Phật (The Way of Siddhartha: A Life of the Buddha) xuất bản năm 1982. Vì tác phẩm này[1] trình bày đại cương về những lời dạy triết học của Đức Phật, tưởng cũng nên có một chương giới thiệu nhằm tóm tắt toàn bộ nội dung của tác phẩm vừa nêu. "Bụt" (Buddha), nghĩa là "Người Giác Ngộ" là thuật ngữ được biết khi Bồ-tát Sĩ-đạt-ta chứng thành Phật quả. Cha của Thái tử là vua Tịnh-phạn (Suddhodana) trị vì một vương quốc nhỏ thuộc dòng họ Thích-ca (‘Saakyan) dưới chân Hy-mã-lạp sơn (Himalayas). Thủ đô của nước là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Mẹ của Thái tử là Hoàng hậu Ma-da (Maayaa), Bà đã băng hà sau khi hạ sinh Thái tử. Em gái của hoàng hậu là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Pajaapatii Gotamii) nuôi dưỡng Ngài suốt thời thơ ấu. Được trưởng thành trong môi trường tiện nghi, hưởng thụ những đặc ân mà biết bao những đứa trẻ khác không có được trong bối cảnh xã hội đầy dẫy bất công giai cấp. Sĩ-đạt-ta được giáo dục chu đáo trong chương trình đào tạo theo lối truyền thống, võ thuật kiếm cung và những lãnh vực nghiên cứu khác, thích ứng cho một vị vua tương lai. Tuy nhiên, ngay từ buổi đầu, Thái tử dường như đã tỏ ra không phù hợp với vua cha- người muốn thái tử sẽ trở thành vị nối ngôi vua hơn là một triết gia hay một nhà lãnh đạo tôn giáo – người phải đối đầu với tư tưởng và các giá trị truyền thống. Những mâu thuẫn này được biểu hiện trong một số huyền thoại ngay từ buổi đầu của cuộc đời Ngài, đặc biệt là tiên đoán của tiên tri A-tư-đà (Asita Kaaladevala) và những ngăn cản của vua cha không cho Ngài chứng kiến những cảnh sinh già bệnh chết. Cách giáo dục truyền thống bao gồm nghiên cứu các kinh điển Vệ-đà (Veda) cũng như sáu môn khoa học phụ: ngữ âm học (‘sik.saa), tế lễ (kalpa), ngữ pháp (vyaakara.na), từ nguyên học (nirukti), thi pháp học (chandas), và thiên văn học (jyoti.s). Như chúng ta thấy trong kinh, cách nhận định sáng suốt về kinh điển Vệ- đà của Thái tử, kiến thức về ý nghĩa và quá trình phát triển tế lễ, đánh giá phê bình về cơ cấu chính trị xã hội đương thời, lối phân tích chi tiết những quy ước đạo đức, những tư tưởng sáng ngời về bản chấtchức năng của ngôn ngữ, tất cả những điều này được xem là những đặc tính của ngài, vốn không thể là kết quả đơn thuần của đốn ngộ, lại càng không phải là toàn tríĐức Phật đã từng phủ bác. Thật ra, sự giác ngộ của Ngài có thể được xem như là sự kết hợp của phản ứng chín chắn đối với sở học truyền thống mà ngài tiếp nhận khi còn là Thái tử, với sự hiểu biết thâm nhập trọn vẹn về nhân sinhbản chất của hiện hữu

Ý nghĩa của sự thị hiện

Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Đời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Đời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói. Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta. Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sinh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta. Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người ta thường dùng chữ đản sinh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sinh (nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sinh ra). Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sinh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao giời cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sinh hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời thì gọi là "đầu thai". Đầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sinh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sinh; xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.

Tài liệu cổ nhất về lễ Đản sinh 

Công trình sưu khảo của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Bửu Tập cho thấy niên đại về đức Phật đản sinh như sau:

Sau Thế Chiến Hai, Hội The Pali Text Society ở Luân Đôn là tổ chức sưu khảo về đạo Phật quy mô nhất, tiếp tục chương trình nghiên cứu và cọng tác với Viện Đại học Colombo ở Tích-lan để dịch thuật, giảng giải các tài liệu cổ văn Pali trên các bia đá, lá cót... tại các chùa. Năm 1972, học giả tì-kheo Isabel Horner, chủ tịch Hội The Pali Text Society công bố một số tài liệu mới tìm được trong quốc sử Mahavamsa của nước Tích Lan. Một tài liệu nói về lễ cầu mưa Gangarohana là một tập tục của dân Tích Lan theo đạo Phật ngày nay còn tồn tại từ vùng quê đến thành thị. Một tài liệu khác quan trọng hơn nói về lễ Đản sinh của đức Phật. Dưới triều vua Dutthagamani (101-77 trước Tây lịch), quốc sử ghi chép lễ Đản sinh do nhà vua thiết lễ cầu nguyện, có cuộc rước kiệu tượng đức Phật do một nghìn thanh niên cầm cờ kéo liễn đi hộ tống. Có thể tìm hiểu qua di chỉ ở các trụ đá Asoka (đại đế A-dục). Đức Phật mất (nhập niết bàn) năm 544 trước Tây lịch. Hai trăm năm mươi năm sau, nước Ấn Độ có vua Asoka hoằng dương đạo Phật. Vua cho khắc trên trụ đá và vách đá các bổn ngự chỉ tuyên dương sự tích và những lời răn dạy của đức Phật. Cho đến bây giờ, các nhà khảo cổ đã tìm ra được 35 di tích ngự chỉ, đánh số, khám đọc, và giải thích cặn kẽ. Ngự chỉ số Bốn, tìm được tại núi Kandahar, ngày nay thuộc đất Afghanistan, ghi lời dạy của nhà vua cho con cháu phải tiếp tục phụng thờ đức Phật và dặn dò mỗi năm ngày lễ Đản sinh, phải tổ chức trọng thể, thiết lập cuộc rước kiệu đức Phật. Ngự chỉ số Sáu ở núi Girnar, miền Tây Ấn Độ ghi rõ hơn cách lập kiệu để rước tượng và di tích đức Phật, khi tổ chức lễ Đản sinh. Như vậy, lễ Đản sinh đức Phật đã được thiết hơn hai ngàn ba trăm năm trước, đặc biệt huy hoàng dưới triều đại vua Asoka là người đã dựng lên 84000 ngôi tháp thờ Phật.

Lễ Đản sinh tại các quốc gia Tây Vực 

Dưới thời đại đế Asoka, đạo Phật đi vào các quốc gia ở miền Vịnh Địa trung hải và các quốc gia ở miền Bắc và Tây Bắc nước Ấn Độ. Từ Ấn Độ sang Trung Hoa, phía Đông Bắc có dãy núi Hy-mã-lạp-sơn là một bức trường thành bằng thép ngăn cản lưu thông. Phía Tây Bắc, dọc theo sườn núi Kunlun sát vào hồ lớn Alma Ata là một số đô thị như Kashgar, Yarland, Chokkuta và Khotan. Cao hơn trên phía Bắc, dọc theo sườn núi Tienshan (Thiên sơn) là đất Thổ-nhỉ-kỳ tư-thản (Chinese Turkestan), gồm bốn tiểu quốc cùng chung văn hóa là các nước Aksu (còn gọi là Baruka), Kucha, Karashar (ngày nay là quận Yen-ki thuộc Trung-hoa), và Turfan (ngày nay gọi là Kao chang). Các quốc gia này kết thành một trục gọi là con Đường Tơ Lụa, trục giao thông căn bản giữa Trung-hoa và các nước Phương Tây ngày đó. Từ đầu thế kỷ Hai-mươi, các phái bộ khảo cổ Tây phương khai quật các động đá nằm trên trục Đường Lụa như Huân tước Aurel Stein, Albert Grunwedel, Paul Pelliot (thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội) Các công trình khảo cổ này phát xuất từ hai quan điểm tranh đua nhiều khi đi gần đến chỗ thù nghịch của hai trường khảo cổ La tinh và Anglosaxon, lại cũng đã đi tới một số kết luận rất giống nhau. Những điểm kết luận đó có thể tóm tắt làm ba mục: thứ nhất là các dân tộc sống trên con Đường Lụa từ hai mươi thế kỷ trước đã thấm nhuần đạo Phật rất sâu sắc; thứ hai là đạo Phật của các sắc dân này mang nặng tập tục Đại thừa Mahayana; và thứ ba -- điều quan trọng đối với người tìm học Phật -- là các tài liệu văn tự của các bậc cao tăng Trung-hoa "đi Tây vực tìm học đạo, đã quan sát tận chỗ, viết thành sách" để lại, đã được chứng minh là những tài liệu rất sát với "sự thật khoa học" ta quan niệm ngày nay. Tại Tây tạng (Tibet), trước khi bị Trung-hoa cộng sản cưỡng chiếm, nơi đây là đất Phật. Niên lịch Tây tạng ghi ngày lễ Đản sinh là ngày 15 tháng Giêng âm lịch, là ngày quốc lễ lớn nhất trong năm, gọi là lễ Son lan chen po (Lễ Đại nguyện), liên hoan từ ngày mồng bốn cho đến ngày 21 tháng Giêng. Đêm Đản sinh, tại thủ đô Lhassa, mỗi cơ sở công hay tư, mỗi gia cư đều treo đèn, kết hoa. Đức Hoạt Phật (Phật sống, Đạt-lai lạt-ma) ngồi trên kiệu có ban quốc nhạc và đội binh bảo giá tháp tùng, đi viếng và chấm điểm từng đơn vị trong thủ đô, nơi nào có trần thiết lễ. Dân chúng từ mọi nơi trong nước, và cả ở ngoài nước như Mông Cổ, kéo về thủ đô tham dự lễ Đại nguyện, cầu xin đức Phật ban ơn một năm đầy hạnh phúc.

Lễ Đản sinh tại Trung Hoa 

Nước Trung-hoa cổ, có bộ môn sử ký chép sự việc theo nguyên tắc trung thực và theo thời gian. Theo thứ tự năm tháng, ta đọc trong Pháp uyển Châu lâm, vào đời Đông Tấn (318-420 TL) có người Thái Kiều đúc năm tượng Phật hài đồng để dùng vào lễ Rước Kiệu, trong ngày lễ Đản sinh. Một tư liệu cổ khác tìm thấy trong sách Cao tăng truyện, viết vào thời Ngũ hồ, cũng tại Đông Tấn (319-351 TL), có người mộ đạo tên là Thích Lộ, mỗi năm vào ngày mồng tám tháng Tư đến chùa làm "lễ chiêm bái đức Phật ra đời," bằng cách tắm tượng Phật bằng nước cam lồ. Học giả đạo Phật Trung-hoa cho là truyền thống đản sinh tại nước Tàu bắt đầu từ các chi tiết này. 

Kế đến, trong sách Ngụy Tấn Nam Bắc triều luận tập có đoạn ghi vua Thái Võ đế nhà Ngụy (408-452 TL) nhân ngày Đản sinh, ngự giá ra ngoài thành, thiết lễ rước kiệu Phật. Vua và hoàng hậu đứng trên đài rải hoa lên tượng Phật sơ sinh lúc đoàn kiệu đi qua. Một tư liệu cổ khác, theo thứ tự thời gian, đọc được trong Phật tổ Thống ký, kể chuyện vua Cao tổ Võ đế nhà Tống tên là Lưu Dũ, năm 462 TL, ngày mồng tám tháng Tư, thiết lễ Đản sinh ngay trong cung điện nhà vua. Cũng trong Phật tổ Thống ký, ta lại thấy vua Hiếu Võ nhà Tây Ngụy (467-499 TL) cho lệnh rước tượng Phật trên kiệu từ các ngôi chùa lớn ở Lạc Dương vào cung đình, dâng hương hoa làm lễ Đản sinh ngày mồng tám tháng Tư, và ra lệnh mỗi năm từ đó phải thiết lễ Phật đản như vậy. Lại sách Lạc Dương Già Lam ký, mỗi năm trước một hôm ngày Phật đản mồng tám tháng Tư, các chùa trong vùng Lạc Dương phải rước tượng Phật trên kiệu đến Thanh Minh thiền viện, tất cả hơn một nghìn tượng Phật để cử hành đại lễ ngày hôm sau. Buổi lễ được cử hành rất tưng bừng náo nhiệt đến nỗi một nhà sư từ Tây Vực đến viếng Lạc Dương kể lại là "(ngày Phật đản) hoa vàng ngời sáng dưới ánh dương, lọng hoa lợp kín như mây phủ, cờ phướn giăng lên như rừng cây, trầm hương xông lên dày đặc như sương phủ, tiếng kinh và tiếng nhạc rung chuyển đất trời" (Kenneth Chen, "Buddhism in China", Princeton 1973, trang 279). 

Đời nhà Đường ở Trung Hoa là thời đại hoàng kim của đạo Phật tại châu Á. Ta theo dõi được là dưới đời nhà Đường (được ghi chép trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao tăng truyện của thầy Nghĩa Tịnh (I Tsing, 635-713 TL) và đời nhà Tống (được ghi chép trong Đại Tống chính biên) tức là từ năm 618 đến năm 1279, lễ Đản sinh được thường xuyên cử hành tưng bừng trong các chùa lớn nhỏ trong dân gian. 

Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương. Vua và hoàng hậu ngự ra cửa An phúc đón võng Phật vào nhà Thái miếu; dân chúng hân hoan nổi nhạc đốt pháo vui mừng. Dưới đời Đường, lúc đạo Phật cực thịnh, người ta đem từ Ấn Độ sang ít nhất năm di tích xá lợi, của đức Phật. Chùa Pháp môn ở phía Bắc Kinh thành Lạc Dương có một lóng xương tay của đức Phật; bốn chùa khác trong thành mỗi chùa thờ trên tháp một chiếc răng của đức Phật. Mỗi năm, vào ngày Phật đản hay ngày rằm tháng Bảy, di vật này được chưng bày cho dân gian lễ bái chiêm ngưỡng. Riêng di tích xá lợi lóng xương tay ở chùa Pháp môn thì hằng năm, ngày lễ Phật đản, lại được rước trên kiệu vào cung đình cho nhà vua hành lễ. Mỗi lần rước kiệu lễ Phật đản là một cơ hội đình đám quá lớn, dân chúng tham gia quá sức nháo nhiệt, lắm khi thành hỗn loạn. Vì lý do đó, Hàn Dũ, một nhà Khổng học quá khích chống đạo Phật, năm 819 viết bài sớ xin nhà vua bãi lệ Phật đản (Kenneth Chen, đã dẫn, trang 280). 

Đầu thế kỷ thứ Mười TL, tại Huệ Lâm thiền viện phủ Khai Phong, vị trụ trìđại sư Nguyên Chiếu, muốn làm giảm mối căng thẳng giữa đạo Nhođạo Phật nên chấn chỉnh nghi lễ của đạo Phật, đặt ngày Phật đản, lễ Tắm Phật (còn gọi là Quán Phật) vào ngày mồng tám tháng Tư. Lễ Rước kiệu cũng chỉ làm trong khuôn viên chùa. Chi tiết sự việc đều ghi trong sách Đông Kinh Mộng Hoa lục chú (Đông Kinh là phủ Khai phong). 

Dưới đời Nguyên, người Mông Cổ là những người mộ đạo Phật, nên vẫn giữ tục lệ thiết Phật đản lớn vào ngày tám tháng Tư. Người khai sáng ra nhà Minh, Chu Nguyên Chương, lúc thiếu thời đi tu ở chùa, nên khi lập quốc, tôn thờ và chỉnh đốn đạo Phật. Dưới đời Thanh, người Mãn Châu vào chế ngự Trung Hoa cũng là những người mộ đạo Phật, nên giữ các tập tục làm lễ Phật đản đã có từ nghìn năm trước, cho tới khi tiếp xúc với Tây phương

Nghi lễ của đạo Phật tại Trung Hoa, từ cuối thế kỷ Mười chín cho đến cuộc Cách mệnh Cộng sản được một nhà học giả phương Tây Holmes Welch mô tả kỹ càng trong sách The Practice of Chinese Buddhism 1900-1950 (Harvard University Press, 1973). Trước Đại hội Kiết tập Sangiti lần Sáu (ta sẽ nói ở sau), người Trung Hoa cử hành lễ Phật đản vào ngày tám tháng Tư, tại chùa đông đúc thiện nam tín nữ tham dự, nghi thức được tả rõ trong sách Holmes Welch (sách dẫn, trang 109 và tiếp theo). Nghi lễ tại các chùa lớn tại Trung Hoa ngay cả trong thời kỳ Dân quốc, đều cử hành theo quy luật ghi trong sách Bách Trượng Thanh quy có từ đời Tống, và được thay đổi ít nhiều dưới triều Minh, gọi là sách Chỉnh Huấn Bách Trượng Thanh quy, dùng làm khuôn thước lễ nghi.

Lễ Đản sinh tại Nhật Bổn 

Nước Nhật Bổn tiếp nhận đạo Phật vào thế kỷ thứ Sáu và người Nhật phát huy đạo Phật vững mạnh cho tới ngày nay. Theo Sử ký Nhật Bổn Nihonshoki, buổi lễ Đản sinh đầu tiên được thiết vào ngày mồng Tám tháng Tư năm 606 TL (người Nhật dùng dương lịch, nhưng các lễ Phật nhiều lúc vẫn theo âm lịch Trung Hoa). Nữ hoàng Suy-Cơ (Sui-Ko, 593-628 TL) và chồng là Thánh Đức thái tử (Shokotu) rất mộ đạo Phật, ra lệnh cho tất cả các chùa, trong dịp lễ Đản sinh phải thiết lễ và phát chẩn. Trong các chùa lớn và đền Thần đạo tại Nhật ngày nay, một số tượng Phật đản sinh (hình tượng đức Phật lúc mới sinh, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời, miệng đọc câu "duy ngã độc tôn"), tạc từ thời đại Nại lương (Nara) vẫn còn giữ được nguyên vẹn, làm bằng chứng là lễ Phật đản đã được cử hành trong các thế kỷ Bảy, Tám tiếp theo. Từ thế kỷ Tám đến thế kỷ Mười hai (triều đại Bình An, Hei-an, 749-1185 TL), đạo Phật ảnh hưởng mạnh vào sinh hoạt xã hộivăn hóa nước Nhật, các buổi lễ Phật càng được cử hành lớn, dựa vào hoàng giaquý tộc

Qua triều đại Kiếm thương (Kamakura, 1185--1335) Phật giáo Nhật-bổn bắt đầu nhận chân những mối bất lợilễ bái cúng tế hào nhoáng gây ra và Thiền tông trở nên hưng thịnh. Thêm vào đó là mối cạnh tranh với Thần đạo bây giờ có nhiều khuynh hướng thực tiễn ái quốc, nên Phật giáo phải nhẹ việc phô trương thanh thế bên ngoài, vì vậy càng giúp cho Thiền tông nẩy nở mạnh hơn, và các buổi lễ Phật phải cử hành đơn giản hơn. Ta nhận thấy sự kiện này trong một tập ký ức của Koka Shiren: "Trong nhiều năm, ngay tại thủ đô, người ta thiết lễ Phật đản vào ngày mồng Sáu để tránh một ngày lễ lớn Thần đạo vào ngày mồng Tám tháng Tư." Trong một bổn Đại tự Nhật ký của chùa Kenchoji do Đạo lan Đan khê (Doryu Rankei) viết năm 1249, rõ ràng và hàm ý châm biếm cách thức thiết lễ Đản sinh nhuộm màu Thần đạo: "(Năm nay) ngày Phật đản, lễ tắm Phật do các vị phu nhân 'shoguna' (vợ của các vị chính quyền tướng quân) phụ trách, gây ra nhiều điều lạ mắt. Ngày xưa (vào lễ Phật đản) có bao nhiêu chi tiết đẹp ý đẹp lòng, như lễ cắm hoa. Ngày nay kiểu cách mới được đem vào chùa, làm lạ tai lạ mắt người theo Phật." Sau đó, có lẽ chính quyền Võ sĩ đạo muốn tránh quần chúng dị nghị, nên từ thế kỷ Mười ba, tổ chức buổi lễ Thần đạo vào ngày mồng Chín, dành ngày mồng Tám cho các chùa và dân chúng làm lễ Đản sinh. Gần đây hơn, ta đọc được trong Nhật Bổn Niên giám Ký sự 1953 một đoạn viết về lễ Đản sinh: "Mỗi năm trên toàn quốc, vào ngày mồng tám tháng Tư (lễ Phật đản) dân chúng đi hái mọi loại hoa rừng, cắm vào cành tre vót nhọn, làm lễ Phật. Các bó hoa này gọi tên là hoa hướng thiên đường (tentobana), hay là hoa tôn quý (takahana)". Cũng vì tục lệ đẹp đẽ này mà tại Nhật, ngày tám tháng Tư còn gọi là ngày Lễ Hoa. Ta cần nhắc thêm là người Nhật mộ đạo tin là nhân loại sẽ được hoàn toàn cứu rỗi trong tương lai khi đức Phật Di Lạc ra đời, và nếu mỗi năm thành tâm thiết lễ Phật đản, thì ngày đức Phật Di Lạc hiện đến sẽ gần hơn. Vì vậy, mà ngày tám tháng Tư lại có thêm tên là ngày Nguyện cầu (Ryu ye-e), tên của một tông phái tại Nhật thờ Phật Di-lạc. 

Lễ hội Khánh Đản tại các nước thờ Phật giáo Theravada 

Tại các nước thờ Phật giáo Nguyên thủy, ngày Phật đản gọi là Visakha Puja (chữ Sanskrit viết là Vaisakha; Tích Lan: Vesak; Cao Mên: Vissakh bochea; Thái Lan: Vaishaka Puja; Lào: Vixakha bouxa). Lễ này kỷ niệm ba biến cố quan trọng trong đời đức Phật: đản sinh, thành đạo, và nhập niết bàn vào một ngày... Chữ Nho ta gọi là lễ Tam Hợp. Người Phật tử phái Nguyên thủy tin là đức Phật đã chọn sinh ra đời, thành đạo và mất vào cùng một ngày. Nói chung, tại Đông Nam Á Nguyên thủy, Visakha là ngày quốc lễ nhưng được thiết trong khuôn viên chùa (vat, wat). Lễ được thiết vào ngày trăng tròn, giữa tháng Tư và tháng Năm dương lịch. Trong dịp lễ, dân chúng tụ họp tại chùa, đọc kinh, nghe thuyết giảng về đời sống của Thích Ca. Tại Thái Lan, chẳng hạn, buổi thuyết giảng pathama-sambodhi, bắt đầu từ trưa, kéo dài suốt đêm. Bài giảng kể lại lễ thành hôn của vua Tịnh phạn và hoàng hậu Maya (vương phụ và vương mẫu của đức Phật), đời sống lúc trẻ của đức Phật, quyết định đi tu cho tới khi thành đạo, hoằng Phápnhập diệt. Bài giảng kết luận nêu lên các nguyên do đạo Phật bị tru diệt tại Ấn Độ, để cho tín đồ suy nghĩ đừng phạm vào lỗi lầm cũ mà mất đạo. 

Tại Ai Lao, lễ Tam hợp còn gọi là ngày Buon Bang Fay, có nghĩa là Hội Pháo. Trong năm, Hội Pháo là ngày lễ vui nhộn nhất. Các chùa thi nhau làm pháo, cùng một loạt ban đêm đốt lên, xem chùa nào đẹp nhất lãnh thưởng, làm trò vui cho dân chúng. 

Tại Nepal (người Tàu phiên âm là Nê-bạc-nhỉ) đạo Phật pha trộn gắn bó với Ấn Độ giáo, nhưng Phật đản vẫn là một ngày quốc lễ, gọi là Bahiravajatra, thiết vào ngày trăng tròn tháng Năm dương lịch. Vào ngày lễ, dân chúng mổ trâu bò làm tiệc, và nhảy múa suốt đêm ngoài lộ. 

Tại Sri-Lanka (Tích Lan), lễ Phật đản gọi là Vesak, là ngày quốc lễ trọng đại nhất trong năm, vào ngày trăng tròn tháng Năm. Như trên đã nói, sử Tích Lan Mahavamsa chép là "lễ Đản sinh được thiết từ ngày đạo Phật được hoàng tử Mahinda, con trai của đại đế Asoka vâng lệnh vua cha đem đạo của đức Thích Ca vào nước Sri-Lanka. Bắt đầu từ thế kỷ thứ Bốn, lễ được chính thức cử hành mỗi năm, có cuộc phát chẩn lớn cho dân nghèo và cuộc dâng y bát cho người tu sĩ. Người Anh đến thôn tính nước Sri-Lanka năm 1815, chịu áp lực của các giáo hội truyền giáo Tây phương, ra lệnh bỏ tục lệ Vesak, làm cho dân bị trị mất tục lệ cúng Phật

Cuối thế kỷ Mười-chín, nhóm lên phong trào kháng Anh do Phật giáo đề xướng, lấy chủ đềChấn hưng Phật giáo. Buổi lễ Vesak lần đầu tiên được tái lập sau bảy mươi năm bị chính quyền Anh cấm đoán, cử hành vào ngày 17 tháng Tư năm 1885. Một người Hoa Kỳ thờ Phật giáo, Đại tá Henry Steele Olcott, trong cuốn ký ức Old Diary Leaves thuật lại là phong trào có sáng kiến lập một lá cờ Phật giáo gồm sáu màu sắc thoát ra từ hào quang chiếc áo đức Phật, dùng để tượng trưng ý niệm hợp đoàn của người theo đạo Phật. Lá cờ này từ đó được Phật giáo thế giới nhìn nhận là lá cờ của đạo Phật, dùng trong mọi quốc gia, đặc biệt vào ngày Phật đản

Tại Nam Việt Nam, tám mươi năm sau, có lẽ vì không để ý tới cái lý do tượng trưng thiêng liêng này của lá cờ Phật giáo đã gây ra sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa. Phật đản tại Sri-Lanka gồm ba lễ lớn: atasil là lễ cầu nguyện; dan-sai, lễ cúng thực phẩm cho tăng ni và phát chẩn cho đại chúng; và thứ ba là đại lễ liên hoan: treo cờ, kết hoa, vui chơi suốt mấy ngày đêm trong nhà, ngoài phố. Ở Sri-Lanka còn có một tục lệ rất đẹp là mỗi năm vào ngày Phật đản Vesak, mỗi người gởi thiệp chúc mừng thăm viếng nhau, tương tự như tục trao đổi thiệp mừng của người theo đạo Cơ-đốc, nhân ngày đức Chúa Christ giáng sinh.

Kiêm Đạt

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11167)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10977)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11209)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11267)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14272)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12498)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26365)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11717)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29286)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11669)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10798)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11106)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10962)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10793)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11329)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10791)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12260)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11301)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10070)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11412)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13427)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11276)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11481)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12707)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13786)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13198)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12821)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12178)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30155)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24912)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10982)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11747)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10681)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11234)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11540)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12922)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12106)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11338)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10225)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11815)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11211)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10910)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13092)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10204)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10888)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10956)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14544)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10703)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21970)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12082)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11438)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30194)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19606)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20590)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12566)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12566)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21209)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13262)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14476)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30437)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28036)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28380)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20968)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27250)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21966)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21501)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26239)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21649)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23421)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26413)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23214)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19859)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21177)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19977)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15434)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39266)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25689)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14139)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22527)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29152)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22566)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22899)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13219)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23205)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13177)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28978)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30514)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14254)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26277)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33246)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8650)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13324)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22151)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21794)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant