Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một vài suy nghĩ về sự đản sanh của Đức Phật

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10226)
Một vài suy nghĩ về sự đản sanh của Đức Phật

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ SỰ ÐẢN SANH CỦA ÐỨC PHẬT

Thích Thiện Bảo

Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.

Muốn tìm hiểu đạo Phật, trước hết phải hiểu Ðức Phật, bởi chính cuộc đời của Ngài nói lên tinh thần giáo lý mà Ngài đã chứng ngộtuyên thuyết.

Nói về Ðức Phật, nếu ta chỉ đứng trên quan điểm lịch sử thôi thì chưa đủ, chưa khắc họa được một cách hoàn mỹ con người siêu việt ấy. Do vậy, kết hợp giữa Ðức Phật lịch sử và Ðức Phật huyền thoại sẽ mang lại cho chúng ta một bức chân dung sắc nét, toát lên đầy đủ tinh thần, tính cách và tầm cỡ của Ðức Phật.

Ðức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên việc lưu lại lịch sử Ðức Phật rất khó chính xác. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không khẳng định được những nét cơ bản hợp lý trong lịch sử cuộc đời Ngài.

Những cứ liệu lịch sử do các nhà khoa học chứng minh thì đã rõ, nhưng những truyền thuyết dân gian cũng không thể chối bỏ, bởi truyền thuyết cũng phần nào dựa trên những yếu tố cơ bản có thật để xây dựng. Những tình tiết dù không có thật nhưng cũng nói lên, phản ánh được tinh thần của vấn đề. Con người không thể bảo rằng cái gì chưa chứng minh được thì điều ấy là không có thật. Ngày nay, khi mà khoa học chưa thể tìm ra một cách đầy đủ về cuộc đời Ngài, thì truyền thuyết là những nét chấm phá để chúng ta có thể dựa vào đó mà hoàn thiện hình ảnh một con người vĩ đại đã mang lại cho nhân loại sự độc đáo về tư duy, về triết học; mang lại cho những người quan tâm đến đời sống tâm linh một con đường an lạc, giải thoát siêu việt, và thiết thực nhất là mang lại cho xã hội một nền tảng đạo đức cao cả về lòng từ bi, vị tha vô lượng.

Có khá nhiều sử sách ghi chép khác nhau về năm sinh, năm xuất gia của Ðức Phật. Ðiều này có nhiều nguyên do (do quan niệm, do cách suy luận, do dựa vào nhiều cứ liệu lịch sử khác nhau...) nhưng nguyên do cơ bản nhất có lẽ là xuất phát từ đặc điểm tư duy của người Ấn Ðộ. Người Ấn xưa không đặt nặng vấn đề thời gian, chính vì vậylịch sử Ấn Ðộ xưa thường không chú trọng việc ghi chính xác ngày tháng. “... Người Ấn chú ý đến những điều giáo huấn, nghi thức hơn là tính chính xác của lịch sử” (Nguyễn Tấn Ðắc - Văn hóa Ấn Ðộ). Tuy nhiên, dù chưa xác định chính xác niên đại, thì năm sinh của Ðức Phật - theo một số sách sử nghiên cứu, được nhiều ý kiến đồng tình, ghi lại - cũng chỉ dao động trong vòng khoảng 100 năm. Do vậy, chúng ta có thể chấp nhận được, vì điều này không ảnh hưởng đến hệ thống tư tưởng giáo lý của Ngài, bởi trong vòng một thế kỷ, hệ tư tưởng con người không có sự khác biệt nhiều.

Theo Phật lịch của chúng ta hiện nay thì Ðức Phật đản sanh vào năm 624 trước Tây lịch. Quê hương Ðức Phật là một vùng đất với các cánh đồng có những cây Sa la (Sàla) sừng sững. Phía Bắc là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (Hymalayas) với đỉnh núi quanh năm tuyết phủ. Phụ vương Ngài là một quốc vương cai trị vùng đất này, thủ phủ là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) gần biên giới Nepal và Ấn Ðộ ngày nay.

Vua Tịnh Phạn là một vị vua rất nhân từsáng suốt. Ðức vua và hoàng hậu đã lớn tuổi nhưng chưa có con nối dõi, do đó, có được một hoàng tử là niềm mong ước của thần dân. Vào một ngày đẹp trời, thành Ca Tỳ La Vệ tổ chức lễ Tinh tú, nhà vua và quần thần cùng nhau dâng lễ. Hoàng hậu Ma Da là một người đức hạnh và rất từ tâm, sau khi dâng lễ, Người liền ra khỏi thành để bố thí thức ăn và đồ mặc cho những người nghèo khó, tàn tật... 

Ðêm hôm đó, hoàng hậu chiêm bao thấy voi trắng sáu ngà từ trên không sa xuống và ẩn vào bên hông bên phải (Phong tục Ấn xem bên phải là thiêng liêng. Người ta luôn đặt những hình tượng tôn kính về bên phải).

Sáng hôm sau, hoàng hậu đem điềm chiêm bao đó tâu lên đức vua; nhà vua liền mời các vị bốc sư đoán mộng, những vị này đều đoán là hoàng hậu sẽ sanh ra một hoàng nam tài đức song toàn.

Dự đoán tốt đẹp ấy đã trở thành sự thật. Hoàng hậu sau đó hạ sinh được một thái tử khôi ngô tuấn tú, thần thái tinh anh rất là đặc biệt.

Theo tập tục Ấn Ðộ thời bấy giờ, người phụ nữ khi sắp sanh phải trở về quê hương cha mẹ của mình để được mẹ ruột chăm sóc. Trên đường đi về quê, đến làng Lâm Tỳ Ni (Lumbini) thì hoàng hậu hạ sinh thái tử trong lúc Người đứng vịn vào một cành cây Vô ưu (một loại cây có tên khoa học là Shorea Robusta).

Năm 1896, các nhà khảo cổ (nhà khảo cổ người Anh tên là Cuningham) đã khai quật được một số di chỉ quan trọng ở Lâm Tì Ni, trong số đó có một thạch trụ cao 6,5 mét do hoàng đế Asoka dựng năm 245 trước Tây lịch, trên đó có ghi đại ý như sau: “Quốc vương Devànampiya Piyadasi sau 25 năm lên ngôi đã ngự đến đây chiêm bái. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã Ðản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc tượng đá và cột đá để kỷ niệm nơi Ngài đản sinh. Nhà vua miễn thuế đất và giảm thuế hoa lợi cho làng Lumbini.”

 Truyền thuyết kể lại rằng: Ngài ra đời lúc ánh nắng của buổi bình minh lấp lánh, trong không khí ngào ngạt của trăm hoa đua nở như đón chào một vị cứu thế vĩ đại. Có rất nhiều những bản kinh văn ghi chép, ca ngợi giờ phút long trọng ấy. Ðặc biệt và phổ biến nhất là hình ảnh hài nhi bước đi bảy bước, dưới chân nở những hoa sen, tay chỉ trời, tay chỉ đất và nói như một lời tuyên thuyết: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn; Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ”. Câu nói này được giải nghĩa nhiều cách khác nhau, nhưng nói chung là nhằm ca ngợi tôn vinh Ðức Phật với lòng biết ơn, kính yêu vô lượng của những người chí tâm sùng bái Ngài, đồng thời cũng mang ý nghĩa khái quát tinh thần giáo lý đạo Phật.

Ðược tin hoàng hậu hạ sanh thái tử, nhà vua cùng quần thần vô cùng hân hoan, liền đem xa giá đến đón. Cả vương quốc mở hội tưng bừng, mừng sự ra đời của thái tử. Các nhà hiền triết được mời vào cung để tiên đoán vận mệnh của Người. Ðứng trước vẻ đẹp xuất thế của thái tử, tất cả đều tiên đoán rằng thái tử sau này chắc chắn sẽ trở thành một bậc vĩ nhân. Vị tế sư của hoàng tộc, có uy tín lâu năm tên là A Tư Ðà (Asita) đã không ngăn được cảm xúc của mình. Ông ứa nước mắt nói rằng ông vô cùng vui mừng vì từ nay nhân loại đã có được một đấng cứu thế, ông tiếc rằng mình tuổi đã cao, không còn sống đến ngày được nghe bậc Thánh nhân truyền dạy. Ông căn dặn người cháu của mình, Nàlaka, ngày sau hãy theo phò tá bậc vĩ nhân này.

Lễ đặt tên cho thái tử được các vị Bà la môn đảm trách. Trong số đó có vị tên là Kiều Trần Như (Kondanna), sau này trở thành người đệ tử xuất gia đầu tiên của Ðức Phật. Thái tử được đặt tên là Sĩ Ðạt Ta (Siddhattha).

Thường thì con cái của các vị vua chúa, quan lại khi mới sinh đều được các thầy tướng số đoán xem vận mệnh, bởi đó là những nhân vật quan trọng, có thể kế nghiệp tổ tiên. Các bậc khai sáng, giáo chủ của các tôn giáo khác cũng thế. Các bậc ấy được các thiên thần báo tin, chào đón với những lời khẳng định chắc chắn địa vị, vai trò của họ sau này. Riêng Ðức Phật, truyền thuyết cho rằng: những nhà tiên tri đưa ra hai giả thuyết, một là thái tử sẽ trở thành một vị vua kế nghiệp tài ba; hai là thái tử sẽ trở thành một bậc Thánh nhân xuất chúng. Chi tiết ấy cho ta thấy được tính khách quan trung thực, không tùy tiện áp đặt của những lời tiên đoán. Ðó cũng là sự xác thực, rạch ròi của quan điểm giáo lý đạo Phật sau này. Nhìn một đứa bé với những nét khôi ngô đặc biệt, thần thái uy linh, người ta có thể tiên đoán một cách khoa học rằng sau này đứa bé ấy sẽ trở thành một nhân vật đặc biệt. Các nhà tiên tri căn cứ vào địa vị thái tử để tiên đoán sau này Sĩ Ðạt Ta sẽ trở thành một vị minh quân vĩ đại; căn cứ vào tình hình xã hội và các trào lưu tư tưởng Ấn Ðộ thời bấy giờ để tiên đoán sau này Sĩ Ðạt Ta sẽ trở thành một vị Thánh nhân xuất chúng, mang lại cho loài người một chân lý tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, những lời tiên đoán cũng nghiêng về phía ý kiến cho rằng sau này thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Trước nhất là ý kiến của vị hiền triết A Tư Ðà - một lão trượng rất được hoàng tộc trọng vọng từ đời vua Sìhahanu, phụ thân của vua Tịnh Phạn, và sau đó là ý kiến của Kiều Trần Như - vị Bà la môn trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà la môn cử hành lễ đặt tên cho thái tử. Cả hai, một già một trẻ, đại diện cho hai thế hệ, mang ý nghĩa biểu hiện sự hoàn hảo của tư tưởng, đều quả quyết rằng thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Cũng chính vì niềm tin có được từ đây mà sau này Kiều Trần Như đã trở thành người ngộ giáo pháp đầu tiên và chứng quả ngay sau khi được Ðức Thế Tôn thuyết giảng.

Tất cả những lời tiên đoán về Ðức Phật bao hàm những ý nghĩa triết lý cao siêu hơn là chất mê tín mà người ta thường gán ghép cho những nhân vật huyền thoại. Sở dĩ có những lời tiên đoán ấy là để nói lên rằng: Ðây không phải là một con người bình thường! Con người này không phải do học hỏi kiến thức mới được thành tựu viên mãn. Con người ấy đã mang sẵn trong mình tư tưởng siêu phàm, tố chất thuần khiết, tinh hoa vũ trụ... và tâm từ vô biên. Ðể sau này, bằng nỗ lực bản thân, với sự tu tập kiên trì, sáng suốt của mình, con người ấy chứng ngộ được chân lý siêu việt bằng chính khả năng của mình, chớ không nhờ vào một tha lực nào khác, không phải vì một sự phó thác nào khác. Con người ấy sẽ mang lại cho thế giới này một chân lý giải thoát tối ưu nhất. Giáo pháp của Ngài không phải do một đấng chí tôn nào trao truyền lại, cũng không phải do Ngài sáng tạo ra; giáo pháp ấy là chân lý tuyệt đối hằng hữu, mà chính Ngài đã chứng đắc.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20468)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22374)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18786)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27068)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18776)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19998)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20181)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28361)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46416)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15484)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65746)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13772)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18689)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15574)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14604)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18761)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12664)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17683)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25524)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38763)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17734)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11270)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18673)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17449)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13256)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13351)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17592)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24359)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12439)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13856)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13027)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12912)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14198)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14641)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21125)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22664)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29999)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13908)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18284)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17100)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12661)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30764)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22837)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14677)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13025)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12780)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12539)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13083)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16354)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15257)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23862)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16218)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29049)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20316)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15593)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37298)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45086)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36958)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant