Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một vài suy nghĩ về sự đản sanh của Đức Phật

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10235)
Một vài suy nghĩ về sự đản sanh của Đức Phật

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ SỰ ÐẢN SANH CỦA ÐỨC PHẬT

Thích Thiện Bảo

Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.

Muốn tìm hiểu đạo Phật, trước hết phải hiểu Ðức Phật, bởi chính cuộc đời của Ngài nói lên tinh thần giáo lý mà Ngài đã chứng ngộtuyên thuyết.

Nói về Ðức Phật, nếu ta chỉ đứng trên quan điểm lịch sử thôi thì chưa đủ, chưa khắc họa được một cách hoàn mỹ con người siêu việt ấy. Do vậy, kết hợp giữa Ðức Phật lịch sử và Ðức Phật huyền thoại sẽ mang lại cho chúng ta một bức chân dung sắc nét, toát lên đầy đủ tinh thần, tính cách và tầm cỡ của Ðức Phật.

Ðức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên việc lưu lại lịch sử Ðức Phật rất khó chính xác. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không khẳng định được những nét cơ bản hợp lý trong lịch sử cuộc đời Ngài.

Những cứ liệu lịch sử do các nhà khoa học chứng minh thì đã rõ, nhưng những truyền thuyết dân gian cũng không thể chối bỏ, bởi truyền thuyết cũng phần nào dựa trên những yếu tố cơ bản có thật để xây dựng. Những tình tiết dù không có thật nhưng cũng nói lên, phản ánh được tinh thần của vấn đề. Con người không thể bảo rằng cái gì chưa chứng minh được thì điều ấy là không có thật. Ngày nay, khi mà khoa học chưa thể tìm ra một cách đầy đủ về cuộc đời Ngài, thì truyền thuyết là những nét chấm phá để chúng ta có thể dựa vào đó mà hoàn thiện hình ảnh một con người vĩ đại đã mang lại cho nhân loại sự độc đáo về tư duy, về triết học; mang lại cho những người quan tâm đến đời sống tâm linh một con đường an lạc, giải thoát siêu việt, và thiết thực nhất là mang lại cho xã hội một nền tảng đạo đức cao cả về lòng từ bi, vị tha vô lượng.

Có khá nhiều sử sách ghi chép khác nhau về năm sinh, năm xuất gia của Ðức Phật. Ðiều này có nhiều nguyên do (do quan niệm, do cách suy luận, do dựa vào nhiều cứ liệu lịch sử khác nhau...) nhưng nguyên do cơ bản nhất có lẽ là xuất phát từ đặc điểm tư duy của người Ấn Ðộ. Người Ấn xưa không đặt nặng vấn đề thời gian, chính vì vậylịch sử Ấn Ðộ xưa thường không chú trọng việc ghi chính xác ngày tháng. “... Người Ấn chú ý đến những điều giáo huấn, nghi thức hơn là tính chính xác của lịch sử” (Nguyễn Tấn Ðắc - Văn hóa Ấn Ðộ). Tuy nhiên, dù chưa xác định chính xác niên đại, thì năm sinh của Ðức Phật - theo một số sách sử nghiên cứu, được nhiều ý kiến đồng tình, ghi lại - cũng chỉ dao động trong vòng khoảng 100 năm. Do vậy, chúng ta có thể chấp nhận được, vì điều này không ảnh hưởng đến hệ thống tư tưởng giáo lý của Ngài, bởi trong vòng một thế kỷ, hệ tư tưởng con người không có sự khác biệt nhiều.

Theo Phật lịch của chúng ta hiện nay thì Ðức Phật đản sanh vào năm 624 trước Tây lịch. Quê hương Ðức Phật là một vùng đất với các cánh đồng có những cây Sa la (Sàla) sừng sững. Phía Bắc là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (Hymalayas) với đỉnh núi quanh năm tuyết phủ. Phụ vương Ngài là một quốc vương cai trị vùng đất này, thủ phủ là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) gần biên giới Nepal và Ấn Ðộ ngày nay.

Vua Tịnh Phạn là một vị vua rất nhân từsáng suốt. Ðức vua và hoàng hậu đã lớn tuổi nhưng chưa có con nối dõi, do đó, có được một hoàng tử là niềm mong ước của thần dân. Vào một ngày đẹp trời, thành Ca Tỳ La Vệ tổ chức lễ Tinh tú, nhà vua và quần thần cùng nhau dâng lễ. Hoàng hậu Ma Da là một người đức hạnh và rất từ tâm, sau khi dâng lễ, Người liền ra khỏi thành để bố thí thức ăn và đồ mặc cho những người nghèo khó, tàn tật... 

Ðêm hôm đó, hoàng hậu chiêm bao thấy voi trắng sáu ngà từ trên không sa xuống và ẩn vào bên hông bên phải (Phong tục Ấn xem bên phải là thiêng liêng. Người ta luôn đặt những hình tượng tôn kính về bên phải).

Sáng hôm sau, hoàng hậu đem điềm chiêm bao đó tâu lên đức vua; nhà vua liền mời các vị bốc sư đoán mộng, những vị này đều đoán là hoàng hậu sẽ sanh ra một hoàng nam tài đức song toàn.

Dự đoán tốt đẹp ấy đã trở thành sự thật. Hoàng hậu sau đó hạ sinh được một thái tử khôi ngô tuấn tú, thần thái tinh anh rất là đặc biệt.

Theo tập tục Ấn Ðộ thời bấy giờ, người phụ nữ khi sắp sanh phải trở về quê hương cha mẹ của mình để được mẹ ruột chăm sóc. Trên đường đi về quê, đến làng Lâm Tỳ Ni (Lumbini) thì hoàng hậu hạ sinh thái tử trong lúc Người đứng vịn vào một cành cây Vô ưu (một loại cây có tên khoa học là Shorea Robusta).

Năm 1896, các nhà khảo cổ (nhà khảo cổ người Anh tên là Cuningham) đã khai quật được một số di chỉ quan trọng ở Lâm Tì Ni, trong số đó có một thạch trụ cao 6,5 mét do hoàng đế Asoka dựng năm 245 trước Tây lịch, trên đó có ghi đại ý như sau: “Quốc vương Devànampiya Piyadasi sau 25 năm lên ngôi đã ngự đến đây chiêm bái. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã Ðản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc tượng đá và cột đá để kỷ niệm nơi Ngài đản sinh. Nhà vua miễn thuế đất và giảm thuế hoa lợi cho làng Lumbini.”

 Truyền thuyết kể lại rằng: Ngài ra đời lúc ánh nắng của buổi bình minh lấp lánh, trong không khí ngào ngạt của trăm hoa đua nở như đón chào một vị cứu thế vĩ đại. Có rất nhiều những bản kinh văn ghi chép, ca ngợi giờ phút long trọng ấy. Ðặc biệt và phổ biến nhất là hình ảnh hài nhi bước đi bảy bước, dưới chân nở những hoa sen, tay chỉ trời, tay chỉ đất và nói như một lời tuyên thuyết: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn; Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ”. Câu nói này được giải nghĩa nhiều cách khác nhau, nhưng nói chung là nhằm ca ngợi tôn vinh Ðức Phật với lòng biết ơn, kính yêu vô lượng của những người chí tâm sùng bái Ngài, đồng thời cũng mang ý nghĩa khái quát tinh thần giáo lý đạo Phật.

Ðược tin hoàng hậu hạ sanh thái tử, nhà vua cùng quần thần vô cùng hân hoan, liền đem xa giá đến đón. Cả vương quốc mở hội tưng bừng, mừng sự ra đời của thái tử. Các nhà hiền triết được mời vào cung để tiên đoán vận mệnh của Người. Ðứng trước vẻ đẹp xuất thế của thái tử, tất cả đều tiên đoán rằng thái tử sau này chắc chắn sẽ trở thành một bậc vĩ nhân. Vị tế sư của hoàng tộc, có uy tín lâu năm tên là A Tư Ðà (Asita) đã không ngăn được cảm xúc của mình. Ông ứa nước mắt nói rằng ông vô cùng vui mừng vì từ nay nhân loại đã có được một đấng cứu thế, ông tiếc rằng mình tuổi đã cao, không còn sống đến ngày được nghe bậc Thánh nhân truyền dạy. Ông căn dặn người cháu của mình, Nàlaka, ngày sau hãy theo phò tá bậc vĩ nhân này.

Lễ đặt tên cho thái tử được các vị Bà la môn đảm trách. Trong số đó có vị tên là Kiều Trần Như (Kondanna), sau này trở thành người đệ tử xuất gia đầu tiên của Ðức Phật. Thái tử được đặt tên là Sĩ Ðạt Ta (Siddhattha).

Thường thì con cái của các vị vua chúa, quan lại khi mới sinh đều được các thầy tướng số đoán xem vận mệnh, bởi đó là những nhân vật quan trọng, có thể kế nghiệp tổ tiên. Các bậc khai sáng, giáo chủ của các tôn giáo khác cũng thế. Các bậc ấy được các thiên thần báo tin, chào đón với những lời khẳng định chắc chắn địa vị, vai trò của họ sau này. Riêng Ðức Phật, truyền thuyết cho rằng: những nhà tiên tri đưa ra hai giả thuyết, một là thái tử sẽ trở thành một vị vua kế nghiệp tài ba; hai là thái tử sẽ trở thành một bậc Thánh nhân xuất chúng. Chi tiết ấy cho ta thấy được tính khách quan trung thực, không tùy tiện áp đặt của những lời tiên đoán. Ðó cũng là sự xác thực, rạch ròi của quan điểm giáo lý đạo Phật sau này. Nhìn một đứa bé với những nét khôi ngô đặc biệt, thần thái uy linh, người ta có thể tiên đoán một cách khoa học rằng sau này đứa bé ấy sẽ trở thành một nhân vật đặc biệt. Các nhà tiên tri căn cứ vào địa vị thái tử để tiên đoán sau này Sĩ Ðạt Ta sẽ trở thành một vị minh quân vĩ đại; căn cứ vào tình hình xã hội và các trào lưu tư tưởng Ấn Ðộ thời bấy giờ để tiên đoán sau này Sĩ Ðạt Ta sẽ trở thành một vị Thánh nhân xuất chúng, mang lại cho loài người một chân lý tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, những lời tiên đoán cũng nghiêng về phía ý kiến cho rằng sau này thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Trước nhất là ý kiến của vị hiền triết A Tư Ðà - một lão trượng rất được hoàng tộc trọng vọng từ đời vua Sìhahanu, phụ thân của vua Tịnh Phạn, và sau đó là ý kiến của Kiều Trần Như - vị Bà la môn trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà la môn cử hành lễ đặt tên cho thái tử. Cả hai, một già một trẻ, đại diện cho hai thế hệ, mang ý nghĩa biểu hiện sự hoàn hảo của tư tưởng, đều quả quyết rằng thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Cũng chính vì niềm tin có được từ đây mà sau này Kiều Trần Như đã trở thành người ngộ giáo pháp đầu tiên và chứng quả ngay sau khi được Ðức Thế Tôn thuyết giảng.

Tất cả những lời tiên đoán về Ðức Phật bao hàm những ý nghĩa triết lý cao siêu hơn là chất mê tín mà người ta thường gán ghép cho những nhân vật huyền thoại. Sở dĩ có những lời tiên đoán ấy là để nói lên rằng: Ðây không phải là một con người bình thường! Con người này không phải do học hỏi kiến thức mới được thành tựu viên mãn. Con người ấy đã mang sẵn trong mình tư tưởng siêu phàm, tố chất thuần khiết, tinh hoa vũ trụ... và tâm từ vô biên. Ðể sau này, bằng nỗ lực bản thân, với sự tu tập kiên trì, sáng suốt của mình, con người ấy chứng ngộ được chân lý siêu việt bằng chính khả năng của mình, chớ không nhờ vào một tha lực nào khác, không phải vì một sự phó thác nào khác. Con người ấy sẽ mang lại cho thế giới này một chân lý giải thoát tối ưu nhất. Giáo pháp của Ngài không phải do một đấng chí tôn nào trao truyền lại, cũng không phải do Ngài sáng tạo ra; giáo pháp ấy là chân lý tuyệt đối hằng hữu, mà chính Ngài đã chứng đắc.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14448)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14158)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39764)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13895)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37372)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40087)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13816)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42652)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13852)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37280)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12702)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11784)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22573)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12524)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12578)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13075)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13124)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17286)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33281)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14850)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11058)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12477)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11976)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11945)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13152)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51292)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12394)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6624)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30446)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13344)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30717)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19408)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12496)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11867)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14778)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13211)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30719)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12054)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11847)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12740)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31925)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29440)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11797)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11758)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10446)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11568)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9651)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9679)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10009)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35442)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10168)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9678)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27830)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15535)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9872)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13693)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9857)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9714)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18354)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12054)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9586)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9703)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8729)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8433)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11490)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12352)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8849)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9462)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11955)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9241)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9090)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9694)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29384)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9098)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9121)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33289)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8442)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30655)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31266)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32307)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9942)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27126)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8460)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19257)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13028)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant