Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tri kiến giải thoátGiải thoát tri kiến giải thoát

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11848)
Tri kiến giải thoát và Giải thoát tri kiến giải thoát

TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT 
& GIẢI-THOÁT TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT
.
Lòng tri ân sâu thẳm vô bờ xin gởi về Bổn-sư và Pháp-sư tôn kính
Nhuận Bảo

Một chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại, vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật, đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh giới này. Mặc dù các định chuẩn ấy, cũng là kinh nghiệm hiểu biết được tích lũy, phát triển và ăn sâu vào tận tim óc, máu thịt như một chùm giây mơ rễ má, mà một sát na trở về trước, tưởng chừng khó bề bứt tách ra khỏi óc não, nhưng chỉ sát na sau, nó vẫn phải bị loại trừ, bị tan biến, chí ít là ẩn hiện mờ nhạt trước một chỗ thấy biết tuyệt đối, tự tại, hiển nhiên, không đến không đi, nếu người ấy không động niệm phân biệt

Giá như miệng lưỡi có thể chứng minh được tự thể của khoảnh khắc thực tại ấy, thì ở chỗ thẳm sâu nhất, chơn chất nhất mà tự đó có thể duyên quyện thành lời, ắc câu nói đầu tiên mà người con Phật muốn thốt ra, muốn hét lên thật to cho mọi người cùng nghe biết, không ngoài việc thể hiện lòng từ mẫn vô biên, hoà lẫn niềm tri ân thẳm sâu tuông chảy vào cõi mênh mang, không gốc gát. Câu nói đó, hoặc là để đánh động mọi người cùng trực nhận chỗ thấy biết siêu tuyệt kia, như một sự chan hoà bình đẳng tuyệt đối, tự nhiên như nhiên, không còn gì là riêng biệt chia cắt, hoặc là để đinh ninh trước mọi người một sự thật không gì thật hơn, với lòng biết ơn trải khắp cả mười phương hư không, không sao nói hết, rằng "đạo Phật là đạo giải thoát". 

Phải! "Ðạo Phật là đạo giải thoát"! Ðó là chân lý, một sự thật bất biến, không gì có thể khác được đối với người con Phật, lúc này. Còn ai có tin hay không tin chân lý ấy, là tuỳ duyên phước của từng mỗi chúng-sanh-tâm, hoặc là đang tự đóng khung biệt lập trong phạm vi ý thức về những định chuẩn quán tính xưa cũ, tôn vinh bản ngãtrói buộc với ngã-pháp sanh-tử hạn hẹp, hoặc là đang hoà làm một cùng với con mắt đạo vốn dĩ luôn tự sẵn có cùng khắp, chưa từng đóng mở, chưa từng đến đi, tạm ví như bầu trời thinh thinh rộng lớn, trong trẻo trên cao. Ðiều ấy có nghĩa, tin hay không tin là tuỳ ở từng mỗi con mắt, ngoài chỗ thấy biết trói buộc nghiệp thức nhơn quả này ra, còn khám phá được gì nữa, khi người ấy có dám đi tìm cái sống miên viễn, vượt quá sanh tử bằng cách can đảmtỉnh táo buông tay để rơi tự do vào khoảng không vắng lặng, sâu thẳm vô biên của tự tâm hay không. 

Nhân kỷ niệm đản sanh lần thứ 2552 của bậc Ðạo-sư Vô thượng, người đang tập tễnh trên bước đường tu học này xin gởi gắm trong đây tất cả lòng hiếu kính và biết ơn ba đời chư Phật, Bồ tát và các vị Thầy đã từ bi cứu vớt, dẫn dắt mảnh thức tâm u mê, tăm tối, lầm lạc này đi vào chánh đạo. Bên cạnh đó, người viết mong được chia xẻ với các bạn đạo thân thiết của mình, những Phật tử đang tu học tại gia, một đề tài tuy xưa cũ, có lẽ không ai không biết, nhưng lại rất quan trọng cho việc tự chứng giải thoát, đó là Giải-thoát Tri-kiến Giải-thoát. 

I. Tri kiến Giải thoát.

Ý nghĩa của hai chữ giải thoát thì bao quát, rộng lớn vô cùng, nên xin không đi vào chi tiết. Vả lại, với những người gần đất xa trời (như chúng tôi), thì đại sự nhân duyên là việc vô cùng cấp thiết, như đang từng giờ, từng phút thúc giục không được xao lảng việc thực hành pháp Phật, bởi cái quĩ thời gian "trăm năm cõi này, một đời học đạo" của mình còn lại qúa ít ỏi, nên sự hiểu biết đối với chữ nghĩa, có lẽ cũng chẳng thấy còn quan trọng mấy. Hơn nữa việc làm giàu tri thức, bằng những khái niệm tương đối, là việc làm đi ngược lại với pháp mônchúng tôi đang tu học, cũng như ngược lại nội dung chính yếuchúng tôi mong muốn được trình bày trong bài viết ngắn này, là người tu Phật cần biết vượt thoát khỏi Tri-kiến Giải-thoát, để tự thăng hoa. Bỡi vậy chỉ mong được định nghĩa sơ lược

Giải-thoát. Giải là cởi, thoát là vượt khỏi. Nghĩa giải thoát được hiểu một cách sơ lược trong đây là "vượt thoát sự trói buộc của khổ ách". 

Ðã làm thân chúng sanh thì ai chẳng phải bị khổ ách trói buộc. Và cũng vì thương xót chúng sanh hệ lụy khổ ách nên chư Phật mới xuất hiệnthế gian để ban phát pháp giải khổ vậy. 

Tri-kiến là thấy biết, lại còn có nghĩa là chỗ thấy và chỗ biết. Phàm phu thấy bằng con mắt của nhãn căn (nhục nhãn - con mắt thịt) và biết bằng ý thức, tức cái chỗ biết bằng phân biệt nhị nguyên theo khái niệm vọng lập, hệ lụy nhơn quả. Các bậc Thánh hiền, Bồ tát thì tuỳ từng công hạnh tu học, chứng nhập diệu pháp vô vi sâu hay cạn mà chỗ thấy biết có nhiều tầng nấc thấp cao sai biệt, gồm từ nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn cho tới pháp nhãn. Với chư Phật thì chỗ thấy biết gồm trọn vào ngũ nhãn, tức thêm phần thấy biết của Phật nhãn. Bởi vậy chỗ thấy biết của đức Phật được tôn xưng là nhứt thiết trí, là toàn biết, tức không gì không biết. 

Tri-kiến giải-thoát trong đây phải được hiểu là chỗ thấy biết của Thánh trí được vận dụng thành lời, vượt quá trói buộc của nhị nguyên phân biệt, sanh tử nghiệp báo, là phương tiện từ trí huệ giải thoát mà chỉ có các Ngài với nhau mới có cùng một chỗ thấy-biết "đang-là" rốt ráo. Còn những người đang học đạo như chúng ta, tuy cũng vẫn đối diện với những lời vượt thoát ấy, nhưng vì chỗ thấy nghe hiểu biết của chúng ta bằng thức ý, trói buộc nhị nguyên phân biệt, nên cần phải nương mượn tri kiến ấy làm phương tiện khai mở, cũng là học, hiểu và hành theo tinh thần của tri kiến ấy dẫn dắt, và cuối cùng là phải biết vượt lên khỏi mọi ý niệm về sự hiểu biết ấy thì mới có thể được gọi là tự độ thoát

Trong nhơn quả, do căn cơ duyên phước theo nghiệp báo của mỗi người có chỗ khác nhau, nên trong tiến trình tu tập, ý niệm cũng như sự cảm nhận một cách tương đối của từng người về nghĩa giải thoát đương nhiên có chỗ sai biệt, nhưng, theo Giáo lý nhà Phật , vị giải thoát cùng tột thì chỉ một, đó là tâm giải-thoát tuyệt đối, là ở bờ kia. 

Lại nữa, cái khổ của chúng sanh thì muôn hình muôn vẻ. Có trăm, ngàn, vạn, ức nghĩa khổ khác nhau được cảm nhận đối với từng mỗi chúng sanh trong cuộc trần này. Và cũng có thể nói rằng, tự ngàn xưa nhẫn đến bây giờ, trừ những người trí căn khiếm khuyết, tinh thần không được bình thường, thì có lẽ cũng rất hiếm người sống trên đời mà không biết quan tâm hay không biết cầu tìm cho mình một con đường giải thoát, trong phạm vi hiểu biết riêng tư của mỗi người. Hoặc cũng có những người hằng ngày phải lăn lộn vì cuộc sống của tự thân và gia đình, hay bận rộn vì chuyện theo đuổi công danh sự nghiệp mà quên mất hoặc không còn có thì giờ để nghĩ tới chuyện giải thoát cho bản thân, nhưng trong những ngày tháng cuối đời, hoặc thậm chí vào một lúc nào đó bất chợt trực diện với cái chết, bên cạnh nỗi lo sợ phải rời bỏ cuộc sống thế gian, thì dù trễ tràng, vẫn có những phút giây nghĩ tới trong niềm hy vọng mong manhthụ động về một sự giải thoát nào đó sẽ đến với mình như một phép lạ bằng trí tưởng tượng giản đơn vốn có. 

Nên có thể nói, hễ đã có thân tướng ắc phải có khổ đau và đồng hành cùng cái khổ luôn luôn trói buộc con người, là nỗi khát khao giải thoát những hệ lụy mà mỗi con người có sự cảm nhận sai biệt theo từng nghiệp báo riêng, không ai giống ai, nhưng đều chung cùng một ý vị, đó là vị khổ ách triền phược thân tâm

Ý nghĩ chủ quantương đối của từng chúng sanh đối với sự giải thoát cũng thiên hình vạn trạng, không ai giống ai, nhưng tựu chung, cái đích cùng tột của sự giải thoátchúng sanh phải nhắm tới, là không ngoài việc phải vượt thoát khỏi sự trói buộc của mối dây sanh tử trong cái vòng khép kín của luật tắc nhân quả luân hồi, cũng là gốc rễ của mọi khổ ách. Chỉ có vượt thoát khỏi sanh tử luân hồi mới là con đường giải thoát triệt để, mới là qua bờ kia. 

Tác nhân gián tiếp gây ra khổ ách và cũng là thủ phạm trực tiếp khiến chúng sanh phải tự vướng mắc, trói buộc sanh tử, không ai khác hơn là ý thức, cũng tức là cái thức biết, là tâm ý thức của mỗi người. 

Mảnh thức biết ấy, cũng gọi là tâm thức, từ một niệm bất giác vô thỉ vô minh, đã mê mờ lầm lạc, tự vọng lập ngã-pháp như là một thực-thể, tức nhận thân tâm này và các pháp tướng tương quan tương tác trong các cảnh giới vọng nghiệp làm thật có, khiến phải trôi lăn vô định trong biển nghiệp thức nhơn quả luân hồi

lòng từ bi không nỡ nhìn thấy chúng sanh tự trói buộc khổ ách mà không ban phát các pháp giải thoát, nên đức Phật mới thị hiện cõi này để cứu độ
Tri kiến giải thoát là chỗ thấy biết tuyệt đối của giải-thoát-tâm, là tuệ giác được đức Phật vận dụng thành lời, dùng làm phương tiện đem ra dạy dỗ các hàng đệ tử xuất giatại gia tu tập, trong thời Chánh pháp, khiến có vô số người được giải thoát, không sao kể xiết. Thế nên, sau khi đức Phật Niết bàn, những lời dạy dỗ ấy được chư Tổ kết tập lại, gồm chứa trong ba tạng kinh điển, được coi như làø pháp phương tiện giải thoát tối thắng, vi diệu dành cho tất thảy mọi căn cơ trên thế gian này. 

Có thể nói, ba tạng kinh điển của Phật giáo, mà nội dung không ra ngoài chánh lý giải thoát sanh tử, được coi như là kho tàng văn hoá, triết học, đạo học, giải thoát học đồ sộ nhất mà loài người được may mắn thừa hưởng từ trí huệ Phật. 
Chư Tổ sau Phật nhẫn đến ngày nay đã nương theo những lời dạy ấy, cũng là tri kiến giải thoát, nói diễn rộng ra để dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu vượt thoát sanh tử.

Và nếu nói không ngoa thì chỉ có đạo Phật, chỉ có giáo pháp hy hữu, vi diệu, nhiệm mầu của Như-lai mới có thể giúp chúng sanh qua bờ kia, chỗ giải thoát tuyệt đối, vượt lìa sanh tử luân hồi

Ðó là một sự thật hiển nhiên. Cuộc sống vô vi, đạo hạnh, rời lìa tất thảy mọi trói buộc, thể hiện tâm giải thoát hiện tiền của đức Phật, cũng như giáo lý giải thoát mà Ngài phát minh từ hơn hai mươi lăm thế kỷ rưỡi qua, đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, được phần lớn nhân loại nồng nhiệt đón nhận như ngày hôm nay, đủ minh chứng cho một sự thật này. 

II. Giải-thoát Tri-kiến giải-thoát.

 
Cảnh giới của tâm giải-thoát tuyệt đối, đương nhiên không thể dùng kiến-văn-giác-tri để tiếp cận, hiểu biết hay giải thích được. Chúng sanh chỉ có một cách duy nhất là mượn tri kiến giải thoát của đức Phật dùng làm phương tiện để học tập, hiểu biết, rồi thực hànhgiải thoát ấy lên chính thân tâm mình, hầu trực ngộ bổn tánh vô sanh, cũng là tới bờ kia. 

Tri kiến ấy là những lời dạy dỗ được đức Phật vận dụng từ trí huệ. Tuệ giác ấy một khi đã thành lời, thì lời kia không còn "như thật" như "tánh-giải-thoát-nó-là" nữa, mà lời kia đã đi vào tướng sanh diệt rồi. Mà đã là tướng thì đó là thể hư vọng, không phải là nghĩa "như -như "của giải thoát tâm tuyệt đối.

Ðể chúng sanh không lầm nhận giữa tri kiến giải thoát với bờ kia, đức Phật đã nhiều lần cảnh giác người học đạo: " Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà môi ta chưa hề động" . Bởi vì, nếu chấp vào chỗ động môi của Như-lai, tức coi những lời kia làm thật, thì có khác nào chúng sanh hủy báng Phật, coi Phật cũng có sanh tử, nghiệp báo như chúng sanh không khác, trong khi Phật thì chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, cũng tức, Phật (Phật là không gì cả) là nghĩa như như của vạn pháp

Bởi thế cho nên, dùng kiến văn giác tri, dù là tri kiến giải thoát đi nữa, để nói về giải thoát tâm tuyệt đối, chẳng khác gãi ngứa ngoài giày, gió thoảng trên đá, không một chút dính dấp tới "nó". 

Một thí dụ. Có người đến gặp Thiền sư Huệ-Hải, nói: 

- Ðịnh hỏi Thầy một câu, không biết có vui lòng đáp chăng?

Ngài Huệ Hải đáp: 

- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc tình mò bắt. 

Ở đây, nếu đã cùng ngài Huệ-Hải một chỗ, thì đâu cần phải mở miệng. Còn chẳng được như vậy, thì dẫu có ngàn câu hỏi (dụng thức biết) đối với chỗ muốn tiến tới (tánh biết) hoàn toàn không thể được, chẳng khác mò trăng trong nước, dẫu ngài Huệ-Hải có đáp thì lời đáp ấy cũng có dính dấp gì tới chỗ tuyệt "một" kia đâu? 

Chúng ta cần phải hiểu một cách cặn kẽ rằng, ba tạng kinh điển của Phật giáo và những lời dạy của chư Tổ sau Phật, tức các Ngữ-lục, đều là pháp phương tiện hy hữu, diệu mầu để độ thoát sanh tử. Tuy nhiên phải tránh lầm lẫn giữa phương tiệncứu cánh, nghĩa là tri kiến giải thoát phải được đinh ninh là phương tiện tạm mượn, còn bờ kia mới là cứu cánh. Bằng không hiểu hay không muốn hiểu như thế, do vô tình hay cố ý vì nặng chấp "ngã-pháp", ắc dễ đắm chìm theo phương tiện, khó bề vượt thoát sanh tử, uổng phí một đời tu. Ðó là một sự thật

Bởi tri kiến ấy cho dù vi diệu, nhiệm mầu đến đâu thì nó vẫn là phương tiện, như mượn tay chỉ trăng, mà tay kia chẳng phải là trăng thật. Thí như qua sông ắc phải mượn đò, nhưng đò chẳng phải là bến đỗ. Thế nên mượn đò qua sông mà chẳng biết tự chèo chống, chẳng chịu tự bước lên bờ thì cũng chưa phải là đã ở bờ kia. Hành giả chỉ được độ thoát khi nào đúng lúc cần phải bỏ phương tiện để tự bước lên bờ, tức thời gian chín muồi để có thể vượt quá cái điểm nhỏ nhất của ý thức, cũng là tự cắt đứt dòng tương tục của tri thức, mà trong đây là tri kiến giải thoát, ngay ở chỗ mong manh vi tế nhất, để tự thăng hoa. Bằng đã sát tới bến, chỉ cần một bước nhảy dứt khoát là lên được bờ kia mà chẳng chịu nhảy, chẳng chịu buông bỏ con thuyền, coi con thuyền như là một đối tượng của bản ngã cần được chấp thủ, hoặc như là một vật báu riêng phải giữ gìn, thì không bao giờ có thể tới bờ kia. Cuối cùng, theo luất tắt sanh diệt, hành giả ắc phải chết chìm với cái riêng tư trói buộc ấy là điều khó tránh khỏi

Y nghĩa của việc giải-thoát tri-kiến, là người tu Phật cần phải biết giũ bỏ sạch sẽ tất thảy những gì được gọi là kiến thứckinh nghiệm học Phật, dù là tri kiến giải thoát đã từng được tích lũy lâu đời đi chăng nữa, để có bước nhảy cuối cùng tự độ qua bờ kia. Không tự buông rơi được những phương tiện giả lập ấy, có nghĩa là bị tri kiến giải thoát trói buộc, ắc khó lòng có được bước nhảy đột ngột, tức thờidứt khoát

Cũng vì sợ chúng sanh lầm chấp vào các phương tiện giải thoát hy hữu của đức Phật, chết chìm với tri kiến giải thoát kia, nên trong hầu hết các kinh Ðại thừa Phương đẳng, Vô lượng nghĩa, đức Phật không quên ân cần dặn dò các đệ tử lớn của mình phải nhận ra cho được điều đó. 

Thí như trong kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, ngài dạy rất rõ ràng: "Này các Tỳ Kheo ! Hãy nên biết, pháp ta thuyết đó dụ như bè, pháp còn phải xả bỏ huống là phi pháp - Nhữ đẳng Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giã, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp".

Trí huệ giải thoát, tức chỗ thấy biết của thánh trí, hoàn toàn không phải là đối tượng để cho chúng ta hiểu biết, dù là tri kiến của kẻ bác học, mà phải dụng tâm "thực-hành" lên chính thân tâm này một cách như pháp, theo đúng tinh thần của tri kiến giải thoát đã được học và hiểu. Nghĩa là trong đời tu Phật, ba việc Học-Hiểu và Hành đối với tri kiến giải thoát, không thể tách rời hay thiếu một. 

Ví như, không có duyên may gặp được tri kiến giải thoát của đức Phật trong đời, hoặc có sẵn tri kiến ấy trong sách vở nhưng không hiểu đức Phật nói gì, mà chỉ biết tự thân ngày đêm gắng sức tu mò, thì có khác nào như bỏ công sức nấu cát mà muốn thành cơm, hoặc mài gạch mà mong thành gương soi, đó là việc không thể được. 

Hoặc được chỉ dạy tri kiến giải thoát của đức Phật, biết được lý lẽ, phương cách để đến bờ kia, nhưng tự thân lại giải đãi, không chịu y pháp thực hànhgiải thoát ấy, mà mong có lúc tới bờ kia, thì có khác nào ôm cây đợi thỏ hoặc nằm chờ sung rụng, biết đến bao giờ mới vượt khỏi khổ ách sanh tử, trong khi đời người ngắn ngủi, ngày tháng qua mau. 

Ở đây chúng ta cần phải hiểu rõ cái gì là mầm móng khiến chúng sanh trói buộc sanh tử? Cội rễ của sự trói buộc ấy không gì khác hơn là tâm ý thức. Và tri kiến giải thoát cũng không ra ngoài sự chi phối của cái tâm ý thức ấy, nghĩa là còn biết có chỗ kiến giải để được giải thoát, thì ngay chỗ "biết" ấy là có sự cột buộc vào sanh tử. Bởi cớ sao? Bởi vì khả năng suy tưởng, tư duy, nhớ nghĩ còn chưa dứt sạch thì chủ thể của những năng lực ấy vẫn còn, tức pháp ngã vẫn tồn tại. Pháp ngã tồn tại thì các pháp tướng khác hiện hữu, và đương nhiên cảnh giới hiện tượng của nhị nguyên phân biệt trói buộc tức khắc. 

Trong từng mỗi chúng sanh hữu tình đều sẵn có hai tâm, một tâm phân biệt theo khái niệm tương đối, tự trói buộc nhơn quả, cũng là tâm ý thức (thức biết) sanh diệt phàm tình và một tâm tuyệt đối, tự tại, phi sanh diệt, cũng là Phật tâm, là giải thoát tâm tuyệt đối. Tâm ý thức là bóng hình, là dụng của tâm tuyệt đối mà có. Nghĩa là, từ vô thỉ, chỉ vì một niệm bất giác vọng sanh, khiến những mảnh thức tâm (thức biết) trùng trùng tuông sanh, mà từng mỗi mảnh thức ấy vẫn dung chứa trọn vẹn tánh căn bản của Phật tâm. Cho nên nói hữu tình đều vốn sẵn có hai tâm. Những mảnh thức biết ấy lại vọng động, khiến có thế giới hiện tượng sanh khởi, khái niệm nhị nguyên phân biệt vọng thành, vì tự chấp có "ngã và pháp" là thật có. Vì chấp, cũng tức là chỉ nhìn một hướng theo thế giới hiện tượng phân lập, mà ngã được coi như là một chủ thể thực tại, nên mảnh thức biết ấy hoàn toàn xoay lưng lại với cái tánh biết căn bản vô sanh, khiến phải tự trói buộc vào cảnh giới sanh tử luân hồi do chính thức biết vọng lập. Cứ xem bóng dáng của những mặt trăng huyễn hoặc biến hiện trên sóng nước thì tự nghiệm ra được chỗ này.

Nội dung của bài viết này không ngoài việc người học Phật cần phải biết vượt khỏi tất thảy mọi tri kiến, cũng là con đẻ của thức biết, để tự độ thoát

Vậy, giải thoát tri kiến giải thoátđiều kiện tất yếu của người tu Phật muốn vượt thoát trói buộc sanh tử

Ðể "ngộ" bổn thể tuyệt đối, cũng là chỗ thấy biết vượt quá cảnh giới trói buộc sanh tử, thì những gì được gọi là tri thức, tức cái tâm ý thức dệt bằng khái niệm phân biệt, là kinh nghiệm tích luỹ từ thuở lọt lòng mẹ, phải được gột tẩy sạch sành sanh, dù một chút cỏn con vi tế cũng không được sót lại, kể cả kinh nghiệm tri kiến giải thoát

Cho nên, lúc mới đầu, người tu Phật cần biết mượn phương tiện độ thoát là tri kiến giải thoát để có chỗ thấy biết chơn chánh, rồi tự thân thực nghiệm theo lý chơn chánh ấy để cắt đứt, vượt lên quá trói buộc của tâm ý thức, cũng là gốc rễ của sanh tử, mà thăng hoa. Thăng hoa ở đây có nghĩa là cái biết của ý thức ngưng dứt ở đâu thì ngay đó cái thấy biết của tâm tuyệt đối tức thì bùng vỡ, mở toang, tất thảy phô bày, cũng là giải thoát tâm hiển lộ

Tuy nhiên, ngày nay vẫn có người lầm tưởng phương tiệncứu cánh, khiến họ không thể vượt thoát khỏi cái vốn kiến thức bác văn giàu có của mình, không tự biết rằng đó là bệnh. Căn bệnh ấy rất khó chữa, thuộc loại trầm kha, nhưng người mắc bệnh lại cảm thấy rất dễ chịu vì nó có thể ru ngủvuốt ve cái tâm chấp ngã cố hữu. Nghĩa là, tuy biết rõ đó là bệnh, nhưng người ta vẫn hoan hỉ, vui thích sống với nó, tự nguyện chết cùng nó, vì ngã kiến của họ đã được thoả mãn.

Kẻ hành giả ấy đâu biết rằng, dù chấp thủ, vun đắp cho mình một kho tàng tri thức cao siêu tới đâu đi nữa, thì đối với bờ kia, chỗ kiến văn ấy cũng chẳng chút dính dấp tới, nếu không muốn nói rằng chính nó là thủ phạm làm chướng ngại bước đường vượt thoát sanh tử của người ấy. Sở tri chướng được định danh định tính như là mặt mũi của kẻ ngán đường, làm cản ngại và trì trệ tiến trình đến bờ kia, mà không hiếm người trong chúng ta vì vô tình nên thường hay bị vướng mắc. Người học đạo cần phải biết vượt qua chỗ này, tức cần phải giải thoát tri kiến giải thoát

Một thí dụ

Có một tăng nhân đến hỏi đạo ở chỗ ngài Văn-Ích. 

- Bạch Thầy ! Muốn cầu tri kiến Phật, con đường nào ngắn nhất để có thể đi qua? 

Ngài Văn-Ích đáp: 

- Chắc chắn không qua đây !

Ngay câu đáp này, vị tăng nhân chợt tỉnh ngộ. 

"Không qua đây". "Ðây", "chỗ này", nếu chẳng phải là sở học tràn đầy tri kiến, hay nếu chẳng phải là cái thức ý lúc nào cũng sẵn sàng, chờ chực phân biệt, cân đong đo đếm, biện biệt phải trái, xa gần đúng sai trói buộc nhơn quả, thì phải nên gọi là gì? Chợt nhận ra nó và biết tự lìa nó, vượt thoát cái tâm ý thức ấy, thì vô minh liền tan biến, giải-thoát-tâm tuyệt-đối phô bày. 
 
Lại nữa, vẫn biết rằng đạo Phật là đạo giải thoát, và từng người có duyên với từng mỗi pháp môn khác nhau, phương cách thực hành mỗi pháp cũng khác nhau, nhưng cứu cánh thì chỉ một, đó là tâm giải thoát tuyệt đối, là bờ kia. Và để đến được bờ kia, thì cả thân lẫn tâm cũng không thể không đi qua con đường "thực hành" Giới, Ðịnh, Huệ, Tri kiến giải thoátGiải thoát Tri-kiến giải-thoát. 

tu pháp môn nào, kể cả Không-pháp (Không-pháp cũng là một pháp hy hữu, tối thắng của đức Phật dành cho người thượng căn, thượng trí, cũng là Tối thượng thừa pháp - Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật) thì cũng không thể không nhập đạo bằng hai lớp cữa, đó là Lý nhập và Hạnh nhập. 

Lý nhậpthể nhập chân lý giải thoát, còn hạnh nhập là thực hành chân lý ấy một cách tự nhiên như nhiên mà không có một chút "ý" nào được gọi là cần phải "hành" cả. Thí như đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì đi nằm, mà trong đây không khởi lên một ý niệm nào trái với sự tự nhiên như nhiên của Ðạo, tức không vọng khởi phân biệt, trói buộc nhơn quả. Cả lý và hạnh đều thể nhập đạo thường, cũng tức là sự lý viên dung, thì đó là chỗ đến đi tự tại

Với người tu Phật, muốn vượt thoát sanh tử, thì ai cũng đều phải tự thân vượt qua cái khung cửa hẹp bắt buộc, đó là phải như lý, y phápthực hành, để đạt tới cứu cánh lý sự viên dung, sự lý vô ngại

Bằng hiểu rành rẽ, thao thao bất tuyệtgiải thoát của đức Phật mà không tự thân thực hành như pháp các lý ấy, thì đó chỉ là người tu Phật bằng miệng mà thôi. Mà tu Phật bằng miệng thì đương nhiên không sao có thể tự giải thoát sanh tử được. Ðiều ấy có khác nào một người làu thuộc phương cách nấu cơm từ A đến Z mà vẫn bị chết đói, bỡi lẽ, thay vì chịu bỏ công vo gạo, chẻ củi, nhen lửa, nấu cơm thì người ấy chỉ biết nói lý thuyết suông, thì không có cơm ăn là điều tất yếu, không chết đói mới là sự lạ. Hoặc thí như ai cũng biết sát sanh là giới đầu tiên trong ngũ giới, thập giới - là giới luật của người tu Phật tại gia phải giữ gìn. Tuy biết rằng không phải cứ ăn chay mãn đời, suốt kiếp thì sẽ thành Phật, nhưng ăn chay đối với đạo Phật vẫn luôn là một điều kiện không thể thiếu. Việc ăn chay của Phật tử được ghi nhận như là một cách gián tiếp để giới sát, ban phát sự sống cho muôn loài có cùng Phật tánh như mình, cũng là thể hiện một cách trực tiếp tâm từ bi như Phật thương khắp chúng sanh. Lại nữa, ăn chay cũng là một pháp tu, một pháp điều tâm dưỡng thân, hỗ trợ đắc lực cho tiến trình tu chứng về mặt trí huệ, tức tạo thuận lợi một cách tích cực cho sự nghiệp cuối cùng của người tu Phật là trực ngộ bình đẳng tánh. Ích lợi của việc ăn chay là làm "tự lợi lợi tha", một điều không ai có thể phủ nhận được. Thế nhưng vẫn có không hiếm người thường hay phớt lờ giới thứ nhất trong thập giới, rồi mượn miệng lưỡi để nguỵ biện rằng ăn chay không quan trọng đối với sự nghiệp tu hành hay chẳng dính dấp gì tới "trí tuệ" của mình cả, mà không dám nói thật lòng, là ăn mạng bổ béo, khoái khẩu hơn ăn chay

Biết pháp mà không chịu như pháp hành trì, có khác nào biết là tội đấy mà vẫn cố phạm. 

Chỉ biết rành giáo lý của Phật mà không đem cả thân lẫn tâm ra thực hành giáo pháp ấy, chỉ dùng thế trí biện thông để miệng lưỡi biện biệt thấp cao, hay dở, đúng sai, hoặc phải như thế này mà không phải như thế kia, chê khen cùng khắp, thì chắc chắn việc tu học như thế chẳng đem lại một thành tựu công đức nào đáng kể. Những người tu học như thế ấy cùng lắm cũng chỉ được cái danh hão trong đời là người biện sĩ tài ba hay là nhà triết học xuất chúng mà thôi, khó bề vượt thoát sự trói buộc của sanh tử luân hồi, với bờ kia ắc còn ngàn trùng xa cách

Có thể có bạn đạo nào đó cho rằng những gì mà người viết nêu ra đều là những ý tưởng cũ rích, ai mà chẳng biết. 

Xin thưa, đúng vậy, đúng vậy! Ðó là những điều cũ rích, xưa cũ từ trước khi chúng ta được sinh ra trong cõi nhơn quả này hàng nhiều đời nhiều kiếp trước nữa là đằng khác. Thế nhưng, dù là những điều xưa cũ, mà những người như chúng tôi, như các bạn, nếu ngày nào còn chưa tự thân thực hành đúng như cái lý xưa cũ ấy để tự giải thoát, thì ý tưởng và các pháp ấy vẫn sẽ còn mới toanh, vẫn trinh nguyên như thuở ban đầu, còn chúng ta thì vẫn cứ phải đến đi trong nhơn quả luân hồi với nhiều thân tướng, nghiệp báo khác nhau. Ví bằng chúng ta biết thực hành những gì xưa như trái đất ấy một cách chân chính, không tự dối lòng, ắc tự tâm mỗi người khó bề không công nhận một sự thật, rằng càng thực nghiệm, chúng ta càng khám phá ra không biết cơ man nào những điều vi diệu, nhiệm mầu, mỗi ngày càng thêm bao điều mới lạ trong một Phật tâm này. 

Cần phải biết y như pháp thực hành, phải biết giải thoát tri kiến giải thoát, đó là những gì mà kẻ khờ khạo này muốn gởi gắm vào nội dung của bài viết và rất mong các bạn đạo thân thiết của chúng ta nên áp dụng một cách thực tế vào các pháp tu phù hợp với căn cơ mỗi người, lên chính bản thân mình. 

Bằng ngược lại, nếu những lời này không thuận hợp đạo lý của chư Phật, Bồ tát, Thánh hiền, đi ngược lại giáo lý giải thoát của Như-lai, thì chúng tôi xin được muôn lần dập đầu sám hối để mong gột sạch cái tâm ngu mê, lầm lẫn này vậy. 

Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tếhoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng. Nghĩa là một Phật tử chân chính, dù tu tại gia hay xuất gia, nếu biết chọn lựa pháp môn thích hợp với căn cơ trí tuệ phúc đức của mình mà tu học, biết nhứt tâm y theo lời dạy của đức Phậthành trì, lòng dạ chơn chất, không tự dối, không cống cao ngã mạn, không cầu lợi cầu danh, thì không phải đợi đến khi chết đi mới có thể biết giải thoát hay không giải thoát, mới biết vượt lìa hay còn cột buộc nghiệp báo sanh tử, mà ngay trước mắt, trong đời này, vẫn có thể thật chứng tâm giải thoát hiện tiền

Tâm giải-thoát hiện tiền của nhà Phật là cảnh giới của Thiền và Ðịnh. Thiền là công việc hành trì cuối cùng trong tiến trình một đời tu chứng, cũng là nơi ươm mầm để khai phóng tất cả mọi trí năng vốn tự sẵn có, để thân chứng tánh "chơn không" của vạn pháp, để ngộ ra tất thảy pháp đều do một tâm bất giác duyên sanh. Ngay trong đây, tại chỗ này có sự thấy biết chân chính bằng con mắt trí huệ, biết như thật tứ đại, ngũ uẩn đều không, sanh tử phiền não cũng chẳng phải thật có, các pháp sanh diệt đều như hoa đóm biến hiện, liền tự thăng hoa. Sống "một" trong Thiền, thì việc ra vào cảnh giới sanh tử trước mắt, bằng ánh sáng của trí huệ, chẳng khác như cái bóng ảo của thân mình vào ra trong một mặt gương vĩ đại mà không hề bị ngăn ngại. Thời gian sống trong Thiền càng lâu, nghĩa là ở trong tánh biết càng dài, có thể gọi đó là tâm Thường-Ðịnh vậy. 

Có thể có người hỏi rằng, cảnh giới của Thiền là thanh tịnh, nhứt như, tuyệt một, vậy thì nói "biết" đó, là ai biết? 

Xin thưa, đó là tánh biết nguyên uỷ tuyệt đối, là tánh Phật chúng sanh "biết" như thật. Ngay từ khi thể nhập tánh biết, sau đôi ba lần tự mình "vào" nhập vai tánh biết, "ra" nhập vai tướng biết, mà sự ra vào ấy chỉ trong sát na, liền biết như thật, chỗ đến đi nói nín thường nhật đều do từ một tánh linh diệu căn bản này mà ra, cũng là biết như thật đâu là pháp thân tự tại phi sanh diệt, đâu là pháp tướng huyễn hoặc, vọng sanh vọng diệt do từ một niệm bất giác vô minh sanh khởi. Rồi từ hai chỗ thấy biết cùng ra vào trước mỏ ác của một con người này, một cái thấy biết phàm tình trói buộc nghiệp báo nhơn quả, và một cái thấy biết tự tại siêu vượt nhơn quả, cả hai thông lưu vô ngại nhau, thì ngay đây, dù không khởi niệm phân biệt, mà chơn giả, chủ khách hai đàng vẫn biện biệt rõ ràng. Dù không phân biệtthực tại và mộng cảnh vẫn biện biệt phân minh, biết như thật gì là bản thể như nhứt vô sanh, gì là vạn pháp huyễn hoá biến hiện, biết tuỳ duyên đến đi trong các cõi để thực hành hạnh nguyện từ nhiều đời làm chúng sanh trong quá khứ, cũng là cách trả ơn ba đời chư Phật, đồng thời tích góp công đức để tự trang nghiêm cõi Phật vị lai

Ðạo Phật là đạo giải thoát. Ðức Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Ðó là chân lý bất biến. Chỉ có điều chúng sanh có biết y theo giáo lý giải thoát của Phật để tu một cách chân chính hay không, thì đó là chỗ quyết định thành tựu công đức ấy một cách nhanh chóng ở đời này hoặc đời sau, hay phải trải qua trong vô lượng kiếp chúng sanh nữa mới thành, là tuỳ ở chúng sanh ấy. 

Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô Thường-Tinh-tấn Bồ-tát Ma-ha tát.
Nam-mô Công-Ðức-lâm Bồ-tát Ma-ha tát.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10399)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9673)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23591)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11832)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10725)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10065)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28668)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29394)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11380)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26309)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31009)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25315)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22788)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13041)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21920)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12219)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14128)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12427)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11236)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10687)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38046)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13662)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13448)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12335)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12579)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12048)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10716)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11206)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23352)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12786)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7383)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12607)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12034)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12860)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11935)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10690)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11354)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11647)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10853)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10782)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10363)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10473)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10698)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10623)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11903)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10684)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10794)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11374)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11088)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11620)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10509)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11248)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12294)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11152)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12487)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11414)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11496)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11286)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12989)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14155)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10999)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11858)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13150)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11569)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11406)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10925)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11273)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10802)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11053)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10873)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10239)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17101)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10995)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10860)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10747)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11380)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11068)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10565)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11372)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10347)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12757)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19237)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19672)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20304)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19730)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19016)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20443)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21063)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17912)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21794)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant