Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm ngày Phật đản

12 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10257)
Cảm niệm ngày Phật đản

Cách nay đúng 2592 năm (tính theo thời điểm năm 1968), một vị Bồ Tát đã giáng sinh ở nước Ca Tỳ La Vệ (Ấn Độ), lớn lên xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đó đến nay chưa hề có một vị Phật thứ hai xuất thế, như vậy Đức Phật được coi như một siêu nhân, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, chỉ thoáng hiện trên vòm trời đen tối trong một thời gian ngắn, rồi lại vụt biến đi, để lại một thế giới u tối đầy đau khổ.

Không, Đức Phật luôn luôn hiện hữu bên cạnh tất cả chúng sinh từ vô thỉ tới vô chung. Ngài đã giáng sinh, từng giờ từng phút trong đời sống của muôn loài. Lúc trẻ cho tới lúc già, lúc khổ cũng như vui, khi trầm luân hay lúc giải thoát, Đức Phật luôn luôn ở cạnh chúng ta và gần chúng ta hơn tất cả mọi người, mọi vật. Những lúc lầm lạcvô minh, chúng ta thấy Ngài nhìn chúng ta bằng cặp mắt thương xótchúng ta cảm thấy xấu hổ, quỳ xuống mà sám hối “Lạy Phật, con đã lầm lỗi theo gót Ma Vương Ác Quỷ gây nhiều tội ác, con xin thành tâm hối cải, bỏ ác làm lành, quày đầu trở lại với Ngài, với sự sáng suốt và giác ngộ”. Lúc đó, Đức Phật mỉm cười, hào quang chiếu sáng, từ bi dơ tay xoa đảnh đầu đứa con biết trở về đường chánh. Những khi làm được điều thiện, chúng ta cũng thấy Phật mỉm cười khuyến khích: “Con hãy tiếp tục làm như vậy, nhưng phải xa lìa chấp tướng nhân ngã, đừng thấy có mình làm thiện, có việc làm thiện, có người được hưởng điều thiện, nên xả bỏ tất cả để được tất cả”.

Chúng ta thấy Phật hiện ra, nghe Phật dạy bảo trong mọi trường hợp, từng giây từng phút, đó không phải là tưởng tượng, là mê tín, mà chính là chúng ta đã cảm thông với Phật. Hình tướng của Ngài là Vô Tướng, âm thanh của Ngài là Vô Thanh, chỉ những cặp mắt đã sáng suốt, đôi tai đã thanh tịnh, mới thấy được Chân Tướng, mới nghe được Diệu Âm. Hình của Ngài lớn như núi Tu Di nhưng hiển hiện trọn vẹn trong lòng hạt cải, tiếng của Ngài to như tiếng gầm của biển cả (Hải Triều Âm) nhưng luôn luôn dịu dàng văng vẳng bên tai chúng sinh; tiếc thay, chúng sinh có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, không thấy, không nghe.

Tiếng của Phật hay tiếng của lương tâm từ chỗ sâu thẳm cất lên át mọi thứ tiếng ở đời, luôn luôn trách mắng khi chúng ta lầm lỗi, thường xuyên khen ngợi lúc chúng ta làm lành, dù bịt tai chúng ta vẫn nghe thấy, đó là tiếng của cõi lòng, tiếng của Chân Tâm, Tiếng Vô Thanh (la Voix du Silence). Người con Phật phải y theo tiếng đó mà tu hành thì vô minh sẽ hết, chân lý sẽ đạt, nhưng thử hỏi số người đó được là bao? Con người trần thế mải nghe theo tiếng của thất tình lục dục, cũng có lúc chợt nghe tiếng Phật nổi lên, nhưng lại giả điếc để giòng đời lôi cuốn nhận chìm trong bể khổ, mặc cho tiếng Phật trở thành tiếng kêu trong sa mạc.

Hình bóng của Phật cũng vậy: chúng ta thường thấy hàng ngày mà không nhận ra. Một người lính chữa lửa leo lên lầu một nhà đang bị cháy để cứu một bà già và vài trẻ thơ không lối thoát sắp bị lửa thiêu; một khách bộ hành nhảy xuống nước để vớt một người mù không may rớt xuống sông; một nông phu chân lấm tay bùn thấy cây cầu khỉ bị lung lay, ván chốt mục nát, vội tìm gỗ để thay, đóng lại những chốt bị hỏng; những sinh viên và học sinh phơi mình dưới nắng mưa cất nhà cho đồng bào bị nạn chiến tranh; người y sĩ lao mình vào lửa đạn để băng bó vết thương cho những người đang quằn quại trong vũng máu; những hình ảnh đẹp đẽ đầy vị tha kể sao cho hết đã xuất hiện thường ngày trước mắt chúng ta mà ít ai biết rằng đó chính là hình bóng Phật, hình bóng của Từ Bi Hỷ Xả, của lòng thương. Ai có cặp mắt sáng suốt sẽ thấy Phật ở khắp mọi nơi, còn người u mê thì dù Phật có hiện ra cũng không thấy. Đáng thương thay cho Gagarine, phi hành gia đầu tiên của nhân loại đã bay trong không gian, khi anh ta nói với giọng diễu cợt: “Tôi đã bay nhiều vòng trong không gian mà không thấy Thượng Đế đâu cả?”; cũng như câu chuyện một người Âu đi săn bị lạc trong rừng thẳm Phi Châu, hết lòng cầu khẩn Thượng Đế giúp anh thấy đường về; trong khi nguy cấp, bóng chiều đã xế, tiếng hổ báo gầm vang, anh ta chợt gặp một người mọi dẫn lối ra khỏi khu rừng; thoát chết, anh ta cười rỡn kể chuyện lại cho bạn bè và kết luận: “Tôi cầu nguyện Thượng Đế mà chỉ thấy một anh mọi đen”.

Những người như Gagarine và gã đi săn thật đáng thương vì họ quá ngu muội không hiểu rằng Thượng Đế (hay Phật) đâu có phải là một con người vật chất bằng xương thịt ngồi mãi trên cao, cứ bay lên là thấy; Ngài đã thị hiện trong lốt người mọi đen để cứu gã đi săn mà hắn nào có biết. Muốn cho những người đó tin là có Thượng Đế, có Phật, thì phải có một Đấng Tối Cao nào đó đội mũ cánh chuồn, râu tóc bạc phơ, mặc áo thụng, đi hia đen, bay trong không gian như máy bay, hóa hiện 72 phép thần thông như Tề Thiên Đại Thánh, ban phước giáng họa ... có như vậy họ mới sợ mới tin! Họ đâu có hiểu rằng Thượng Đế cũng như Phật là Chân lý, là Từ Bi Hỷ Xả, là Bác Ái Lợi Tha, là Giác Ngộ Giải Thoát. Ở người nào, ở chỗ nào những đức tánh đó đều có thể biểu hiện và ở đâu có sự biểu hiện đó là có Thượng Đế, có Phật. Ít người chịu tìm, chịu nhận Niết Bàn tại thế mà chỉ đi tìm Niết Bàn ở trên chín từng mây.

Phật là Pháp, là Chân lý, mà Chân lý thì ở khắp cùng, trường tồn bất biến; chỗ nào có Pháp là có Phật, người nào đắc Pháp thì người đó là Phật, mà người nào chưa đắc Pháp thì cũng là Phật, nhưng đó là Như Lai tại triền, còn bị xiềng xích thế gian ràng buộc; khi cởi bỏ được xiềng xích phiền não thì là Như Lai xuất triền, được tự tại vô ngại. Ai cũng có Phật tánh, ai cũng có khả năng thành Phật, và hàng ngày có biết bao nhiêu vị Phật ra đời mà ít người nhận biết.

Lạy Phật! Con không dám đứng trong lý thuyết mà bàn suông, con muốn quay về thực tại để chiêm nghiệm, để hành động, để tự cứu và cứu người khác. Trong thế giới đầy hận thù và khổ đau, chúng ta phải làm gì? Trước hết, chúng ta hãy bình tỉnh và sáng suốtphân tách sự vật một cách khách quan: Chúng ta là ai? Vai trò của chúng ta là thế nào? Chúng ta đã làm gì cho mình và cho người khác? Nếu suy gẫm kỹ càng thì thấy chúng tahiện thân của tham sân sichấp ngã, chúng ta đã đóng những vai trò của những kẻ giả đạo đức luôn miệng nói Từ Bi, Bác Ái, Hòa Bình, Tự Do, mà hành động thì trái hẳn; chúng ta luôn luôn ích kỷ, làm việc gì cũng vì mình, vì gia đình mình, vì quốc gia mình, mà không hề nghĩ đến người khác, gia đình khác, quốc gia khác.

Sự chấp ngãngã sở đã đưa đến vực thẳm của sợ hãiyếu hèn. Chúng ta sợ chết, sợ mất của, sợ tù tội, sợ đàn áp, sợ tất cả những gì làm thiệt hại đến bản thân và đến những cái gì của ta vì vậy chúng ta yếu hèn cúi đầu thụ động chấp nhận sự sai khiến của Ma Vương hiện ra dưới hình thức của si mê, dục vọng, ác độc. Chúng ta học vì sợ dốt, sợ thi trượt chứ không biết học để làm người; chúng ta tu vì sợ tội, sợ đọa địa ngục, mong được phước lên Thiên Đàng, chứ không hiểu tu là sửa, là quên mình lợi người, hướng về giác ngộgiải thoát. Tất cả mọi việc làm của chúng ta đều do sự sợ hãi chứ không vì một mục đích cao cả nào. Rồi khi tiếng nói của lương tâm, của Chân lý, khi Diệu Âm từ đáy lòng nổi lên thì chúng ta nhắm mắt bịt tai, tìm đủ mọi lý do xảo ngôn để bào chữa những hành động sai lầm của mình; đôi khi không chịu nổi sự gầm thét của Hải Triều Âm, chúng ta bỏ trốn vào tháp ngà hoặc lên núi xuống biển ẩn mình; như vậy đâu có giải quyết được vấn đề.

Chúng ta cần phải học hỏi suy tầm để có một số vốn liếng làm phương tiện khởi hành, rồi dấn thân vào cuộc đời, làm mọi việc phải làm để tìm ra Chân lý đang ẩn mình đâu đây, trong không gian, vĩnh cửu với thời gian, ở đâu cũng có, lúc nào cũng hiện, nhưng khó thấy khó gặp. Trước hết phải diệt trừ sự sợ hãi bằng cách giữ tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, tâm trí kiên cố như núi Tu Di, lòng phẳng lặng như mặt hồ không gợn sóng, đó là đức tính Vô ÚyĐức Phật đã nhiều lần căn dặn. Thân ta là do ngũ uẩn hợp thành, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, mọi sự mọi vật đều do luật vô thường chi phối, nay còn mai mất có gì là quý, là trọng đâu mà phải lao tâm khổ trí để bảo vệ. Vô Thường, Khổ, Vô ngã, đó là Tam Pháp Ấn căn bản của giáo lý nhà Phật. Biết ba điều này, chúng ta sẽ tìm ra lối sống hợp thời, hợp cơ và trung đạo.

Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch, được như vậy tâm an định không còn sợ hãi, được pháp Vô Úy của Phật, tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh mọi sự vật và tâm trí mở ra đón Lý lẽ diệu huyền. Nụ cười đầy hỷ xả an lạc của Đức Di Lặc tượng trưng cho lòng Vô Úy mà Ngài đã thực hiện khi Ngài hóa thân làm Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) tay bắt ấn Vô Úy (Abhaya Mudra). Chỗ nào còn sợ hãi đau khổ, còn chiến tranh hận thù thì Ngài đến với Vô Úy Ấn sáng ngời trên tay, với nụ cười hiền hòa an lạc, để an ủi dạy bảo chúng sinh con đường thoát khổ. Chúng ta có pháp Vô Úy thì lòng không sợ hãi, tâm thản nhiên trước mọi biến chuyển vô thường, bình tĩnh đón nhận kết quả của lý vô ngã, khổ vui không còn làm náo động tâm hồn, nhìn cuộc đời như tuồng ảo hóa mộng huyễn; chúng ta là tảng đá lớn mà ngọn gió đời không lay chuyển được. Chúng ta nhìn thẳng vào sợ hãi và tự nhủ: “Không có gì hại ta được”, vì cái ta không thật có (Vô Ngã). Chỉ khi nào ta nhận là có ta, coi trọng và đề cao bản ngã, đem sự sợ hãi vào nuôi dưỡng trong cái ta giả tạo đó khiến cho sự sợ hãi mới xâm chiếm và làm chủ tâm hồn ta được.

Nhưng chúng ta không phải là gỗ đá, không cảm xúc trước nỗi thương đau của chúng sinh, ta phải chia sẻ nỗi đau khổ của đồng loại bằng cách sống hòa mình với chúng sinhthực hành lục độ vạn hạnh để cúu giúp muôn loài.

Lạy Phật!

Hôm nay chúng con mừng lễ Khánh Đản của Ngài với lòng luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện của Ngài thường xuyên ở khắp nơi, mong cho ánh sáng của Ngài làm tan hắc ám vô minh, phá vỡ mọi sợ hãihận thù, đem lại an vui và hòa bình cho nhân loại. Đêm tối sắp hết, sao Mai lấp lánh báo hiệu rạng đông sắp tới, một ngày sắp bắt đầu; tuy biết một ngày chỉ là một khoảng ngắn ngủi trong thời gian vô tận, nhưng ngày Rằm tháng Tư đánh dấu một bước tiến chắc chắn của nhân loại hướng về Giác NgộGiải Thoát.

Một vị Phật đã thành, nhiều vị Phật sắp thành.

(đăng trong tạp chí Từ Quang,

số 187-188, tháng 3 & 4 năm 1968)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11715)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11216)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11945)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10269)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29251)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11958)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11951)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10958)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19631)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7347)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11376)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12874)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12224)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11484)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22113)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11852)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15929)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14116)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12615)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13230)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13673)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20018)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14424)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13559)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12352)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34746)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13411)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13736)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31997)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13212)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13073)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13431)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13319)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18056)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14936)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15747)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14886)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15865)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20814)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21329)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35164)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27553)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43958)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37924)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15145)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15080)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12998)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12670)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15627)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14979)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11420)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53206)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16546)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13185)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20712)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12639)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15614)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15510)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14791)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15627)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13054)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11780)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12313)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12587)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13498)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12487)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24999)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11994)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12767)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11624)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13762)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14122)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12929)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12759)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13025)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13936)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13014)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13626)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12469)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14459)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13318)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13787)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14643)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11874)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12732)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28305)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11807)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12656)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15073)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12013)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11788)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12887)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11998)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11532)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10304)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant