Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm ngày Phật đản

12 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10251)
Cảm niệm ngày Phật đản

Cách nay đúng 2592 năm (tính theo thời điểm năm 1968), một vị Bồ Tát đã giáng sinh ở nước Ca Tỳ La Vệ (Ấn Độ), lớn lên xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đó đến nay chưa hề có một vị Phật thứ hai xuất thế, như vậy Đức Phật được coi như một siêu nhân, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, chỉ thoáng hiện trên vòm trời đen tối trong một thời gian ngắn, rồi lại vụt biến đi, để lại một thế giới u tối đầy đau khổ.

Không, Đức Phật luôn luôn hiện hữu bên cạnh tất cả chúng sinh từ vô thỉ tới vô chung. Ngài đã giáng sinh, từng giờ từng phút trong đời sống của muôn loài. Lúc trẻ cho tới lúc già, lúc khổ cũng như vui, khi trầm luân hay lúc giải thoát, Đức Phật luôn luôn ở cạnh chúng ta và gần chúng ta hơn tất cả mọi người, mọi vật. Những lúc lầm lạcvô minh, chúng ta thấy Ngài nhìn chúng ta bằng cặp mắt thương xótchúng ta cảm thấy xấu hổ, quỳ xuống mà sám hối “Lạy Phật, con đã lầm lỗi theo gót Ma Vương Ác Quỷ gây nhiều tội ác, con xin thành tâm hối cải, bỏ ác làm lành, quày đầu trở lại với Ngài, với sự sáng suốt và giác ngộ”. Lúc đó, Đức Phật mỉm cười, hào quang chiếu sáng, từ bi dơ tay xoa đảnh đầu đứa con biết trở về đường chánh. Những khi làm được điều thiện, chúng ta cũng thấy Phật mỉm cười khuyến khích: “Con hãy tiếp tục làm như vậy, nhưng phải xa lìa chấp tướng nhân ngã, đừng thấy có mình làm thiện, có việc làm thiện, có người được hưởng điều thiện, nên xả bỏ tất cả để được tất cả”.

Chúng ta thấy Phật hiện ra, nghe Phật dạy bảo trong mọi trường hợp, từng giây từng phút, đó không phải là tưởng tượng, là mê tín, mà chính là chúng ta đã cảm thông với Phật. Hình tướng của Ngài là Vô Tướng, âm thanh của Ngài là Vô Thanh, chỉ những cặp mắt đã sáng suốt, đôi tai đã thanh tịnh, mới thấy được Chân Tướng, mới nghe được Diệu Âm. Hình của Ngài lớn như núi Tu Di nhưng hiển hiện trọn vẹn trong lòng hạt cải, tiếng của Ngài to như tiếng gầm của biển cả (Hải Triều Âm) nhưng luôn luôn dịu dàng văng vẳng bên tai chúng sinh; tiếc thay, chúng sinh có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, không thấy, không nghe.

Tiếng của Phật hay tiếng của lương tâm từ chỗ sâu thẳm cất lên át mọi thứ tiếng ở đời, luôn luôn trách mắng khi chúng ta lầm lỗi, thường xuyên khen ngợi lúc chúng ta làm lành, dù bịt tai chúng ta vẫn nghe thấy, đó là tiếng của cõi lòng, tiếng của Chân Tâm, Tiếng Vô Thanh (la Voix du Silence). Người con Phật phải y theo tiếng đó mà tu hành thì vô minh sẽ hết, chân lý sẽ đạt, nhưng thử hỏi số người đó được là bao? Con người trần thế mải nghe theo tiếng của thất tình lục dục, cũng có lúc chợt nghe tiếng Phật nổi lên, nhưng lại giả điếc để giòng đời lôi cuốn nhận chìm trong bể khổ, mặc cho tiếng Phật trở thành tiếng kêu trong sa mạc.

Hình bóng của Phật cũng vậy: chúng ta thường thấy hàng ngày mà không nhận ra. Một người lính chữa lửa leo lên lầu một nhà đang bị cháy để cứu một bà già và vài trẻ thơ không lối thoát sắp bị lửa thiêu; một khách bộ hành nhảy xuống nước để vớt một người mù không may rớt xuống sông; một nông phu chân lấm tay bùn thấy cây cầu khỉ bị lung lay, ván chốt mục nát, vội tìm gỗ để thay, đóng lại những chốt bị hỏng; những sinh viên và học sinh phơi mình dưới nắng mưa cất nhà cho đồng bào bị nạn chiến tranh; người y sĩ lao mình vào lửa đạn để băng bó vết thương cho những người đang quằn quại trong vũng máu; những hình ảnh đẹp đẽ đầy vị tha kể sao cho hết đã xuất hiện thường ngày trước mắt chúng ta mà ít ai biết rằng đó chính là hình bóng Phật, hình bóng của Từ Bi Hỷ Xả, của lòng thương. Ai có cặp mắt sáng suốt sẽ thấy Phật ở khắp mọi nơi, còn người u mê thì dù Phật có hiện ra cũng không thấy. Đáng thương thay cho Gagarine, phi hành gia đầu tiên của nhân loại đã bay trong không gian, khi anh ta nói với giọng diễu cợt: “Tôi đã bay nhiều vòng trong không gian mà không thấy Thượng Đế đâu cả?”; cũng như câu chuyện một người Âu đi săn bị lạc trong rừng thẳm Phi Châu, hết lòng cầu khẩn Thượng Đế giúp anh thấy đường về; trong khi nguy cấp, bóng chiều đã xế, tiếng hổ báo gầm vang, anh ta chợt gặp một người mọi dẫn lối ra khỏi khu rừng; thoát chết, anh ta cười rỡn kể chuyện lại cho bạn bè và kết luận: “Tôi cầu nguyện Thượng Đế mà chỉ thấy một anh mọi đen”.

Những người như Gagarine và gã đi săn thật đáng thương vì họ quá ngu muội không hiểu rằng Thượng Đế (hay Phật) đâu có phải là một con người vật chất bằng xương thịt ngồi mãi trên cao, cứ bay lên là thấy; Ngài đã thị hiện trong lốt người mọi đen để cứu gã đi săn mà hắn nào có biết. Muốn cho những người đó tin là có Thượng Đế, có Phật, thì phải có một Đấng Tối Cao nào đó đội mũ cánh chuồn, râu tóc bạc phơ, mặc áo thụng, đi hia đen, bay trong không gian như máy bay, hóa hiện 72 phép thần thông như Tề Thiên Đại Thánh, ban phước giáng họa ... có như vậy họ mới sợ mới tin! Họ đâu có hiểu rằng Thượng Đế cũng như Phật là Chân lý, là Từ Bi Hỷ Xả, là Bác Ái Lợi Tha, là Giác Ngộ Giải Thoát. Ở người nào, ở chỗ nào những đức tánh đó đều có thể biểu hiện và ở đâu có sự biểu hiện đó là có Thượng Đế, có Phật. Ít người chịu tìm, chịu nhận Niết Bàn tại thế mà chỉ đi tìm Niết Bàn ở trên chín từng mây.

Phật là Pháp, là Chân lý, mà Chân lý thì ở khắp cùng, trường tồn bất biến; chỗ nào có Pháp là có Phật, người nào đắc Pháp thì người đó là Phật, mà người nào chưa đắc Pháp thì cũng là Phật, nhưng đó là Như Lai tại triền, còn bị xiềng xích thế gian ràng buộc; khi cởi bỏ được xiềng xích phiền não thì là Như Lai xuất triền, được tự tại vô ngại. Ai cũng có Phật tánh, ai cũng có khả năng thành Phật, và hàng ngày có biết bao nhiêu vị Phật ra đời mà ít người nhận biết.

Lạy Phật! Con không dám đứng trong lý thuyết mà bàn suông, con muốn quay về thực tại để chiêm nghiệm, để hành động, để tự cứu và cứu người khác. Trong thế giới đầy hận thù và khổ đau, chúng ta phải làm gì? Trước hết, chúng ta hãy bình tỉnh và sáng suốtphân tách sự vật một cách khách quan: Chúng ta là ai? Vai trò của chúng ta là thế nào? Chúng ta đã làm gì cho mình và cho người khác? Nếu suy gẫm kỹ càng thì thấy chúng tahiện thân của tham sân sichấp ngã, chúng ta đã đóng những vai trò của những kẻ giả đạo đức luôn miệng nói Từ Bi, Bác Ái, Hòa Bình, Tự Do, mà hành động thì trái hẳn; chúng ta luôn luôn ích kỷ, làm việc gì cũng vì mình, vì gia đình mình, vì quốc gia mình, mà không hề nghĩ đến người khác, gia đình khác, quốc gia khác.

Sự chấp ngãngã sở đã đưa đến vực thẳm của sợ hãiyếu hèn. Chúng ta sợ chết, sợ mất của, sợ tù tội, sợ đàn áp, sợ tất cả những gì làm thiệt hại đến bản thân và đến những cái gì của ta vì vậy chúng ta yếu hèn cúi đầu thụ động chấp nhận sự sai khiến của Ma Vương hiện ra dưới hình thức của si mê, dục vọng, ác độc. Chúng ta học vì sợ dốt, sợ thi trượt chứ không biết học để làm người; chúng ta tu vì sợ tội, sợ đọa địa ngục, mong được phước lên Thiên Đàng, chứ không hiểu tu là sửa, là quên mình lợi người, hướng về giác ngộgiải thoát. Tất cả mọi việc làm của chúng ta đều do sự sợ hãi chứ không vì một mục đích cao cả nào. Rồi khi tiếng nói của lương tâm, của Chân lý, khi Diệu Âm từ đáy lòng nổi lên thì chúng ta nhắm mắt bịt tai, tìm đủ mọi lý do xảo ngôn để bào chữa những hành động sai lầm của mình; đôi khi không chịu nổi sự gầm thét của Hải Triều Âm, chúng ta bỏ trốn vào tháp ngà hoặc lên núi xuống biển ẩn mình; như vậy đâu có giải quyết được vấn đề.

Chúng ta cần phải học hỏi suy tầm để có một số vốn liếng làm phương tiện khởi hành, rồi dấn thân vào cuộc đời, làm mọi việc phải làm để tìm ra Chân lý đang ẩn mình đâu đây, trong không gian, vĩnh cửu với thời gian, ở đâu cũng có, lúc nào cũng hiện, nhưng khó thấy khó gặp. Trước hết phải diệt trừ sự sợ hãi bằng cách giữ tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, tâm trí kiên cố như núi Tu Di, lòng phẳng lặng như mặt hồ không gợn sóng, đó là đức tính Vô ÚyĐức Phật đã nhiều lần căn dặn. Thân ta là do ngũ uẩn hợp thành, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, mọi sự mọi vật đều do luật vô thường chi phối, nay còn mai mất có gì là quý, là trọng đâu mà phải lao tâm khổ trí để bảo vệ. Vô Thường, Khổ, Vô ngã, đó là Tam Pháp Ấn căn bản của giáo lý nhà Phật. Biết ba điều này, chúng ta sẽ tìm ra lối sống hợp thời, hợp cơ và trung đạo.

Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch, được như vậy tâm an định không còn sợ hãi, được pháp Vô Úy của Phật, tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh mọi sự vật và tâm trí mở ra đón Lý lẽ diệu huyền. Nụ cười đầy hỷ xả an lạc của Đức Di Lặc tượng trưng cho lòng Vô Úy mà Ngài đã thực hiện khi Ngài hóa thân làm Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) tay bắt ấn Vô Úy (Abhaya Mudra). Chỗ nào còn sợ hãi đau khổ, còn chiến tranh hận thù thì Ngài đến với Vô Úy Ấn sáng ngời trên tay, với nụ cười hiền hòa an lạc, để an ủi dạy bảo chúng sinh con đường thoát khổ. Chúng ta có pháp Vô Úy thì lòng không sợ hãi, tâm thản nhiên trước mọi biến chuyển vô thường, bình tĩnh đón nhận kết quả của lý vô ngã, khổ vui không còn làm náo động tâm hồn, nhìn cuộc đời như tuồng ảo hóa mộng huyễn; chúng ta là tảng đá lớn mà ngọn gió đời không lay chuyển được. Chúng ta nhìn thẳng vào sợ hãi và tự nhủ: “Không có gì hại ta được”, vì cái ta không thật có (Vô Ngã). Chỉ khi nào ta nhận là có ta, coi trọng và đề cao bản ngã, đem sự sợ hãi vào nuôi dưỡng trong cái ta giả tạo đó khiến cho sự sợ hãi mới xâm chiếm và làm chủ tâm hồn ta được.

Nhưng chúng ta không phải là gỗ đá, không cảm xúc trước nỗi thương đau của chúng sinh, ta phải chia sẻ nỗi đau khổ của đồng loại bằng cách sống hòa mình với chúng sinhthực hành lục độ vạn hạnh để cúu giúp muôn loài.

Lạy Phật!

Hôm nay chúng con mừng lễ Khánh Đản của Ngài với lòng luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện của Ngài thường xuyên ở khắp nơi, mong cho ánh sáng của Ngài làm tan hắc ám vô minh, phá vỡ mọi sợ hãihận thù, đem lại an vui và hòa bình cho nhân loại. Đêm tối sắp hết, sao Mai lấp lánh báo hiệu rạng đông sắp tới, một ngày sắp bắt đầu; tuy biết một ngày chỉ là một khoảng ngắn ngủi trong thời gian vô tận, nhưng ngày Rằm tháng Tư đánh dấu một bước tiến chắc chắn của nhân loại hướng về Giác NgộGiải Thoát.

Một vị Phật đã thành, nhiều vị Phật sắp thành.

(đăng trong tạp chí Từ Quang,

số 187-188, tháng 3 & 4 năm 1968)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20479)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22387)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18792)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27079)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18783)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 20005)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38125)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20187)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28367)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46436)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15495)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65776)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13779)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18698)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15581)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14610)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18786)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12666)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17687)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25532)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38774)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17744)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11280)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18678)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17455)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13261)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13358)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17616)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24380)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12446)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13858)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13031)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12921)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14218)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14647)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21127)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22691)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 30015)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13912)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18288)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17104)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12666)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30777)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22849)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14699)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13033)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12784)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12544)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13088)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16375)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15283)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23869)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16220)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29058)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20332)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15597)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37324)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45088)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36973)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant