Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 01 - Viên giác và Huyễn tượng là hai trạng thái của một tâm

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10936)
Bài 01 - Viên giác và Huyễn tượng là hai trạng thái của một tâm

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 1]
Viên giác và Huyễn tượng là hai trạng thái của một tâm
Phụ lục: One Mind, Two States: Enlightenment and Illusion
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Trích từ: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom,1997.
[Tâm diệu minh thường trụ. Con đường của Phật]

1. Phật-pháp

Hãy không làm bất cứ cái tác hại
Hãy hoàn thành tuyệt hảo cái lợi ích
Hãy giữ gìn trọn vẹn tâm của bạn
Đó là giáo pháp Phật đã giảng dạy.

-- Phật Sakyamuni. (*)

blankHai mươi lăm thế kỉ trước đây, xuyên qua kinh nghiệm của thiền định, Phật Sakyamuni đã thâm nhập bản chất căn bản của tâm. Bằng thiền quán trực tiếp, ngài đã thật chứng bản chất thâm sâu của tâm và bằng vào phương tiện đó ngài đạt giác ngộ. Đây là kinh nghiệm tối thắng của ngài. Khám phá ra thật tại của cái chúng ta là, ngài đã diễn tả giáo pháp của ngài và đã đề nghị một con đường cho những người khác có được lối đi tới kinh nghiệm ngài đã thật chứng. Giáo pháp này được gọi là Phật-pháp, giáo pháp của Đức Phật.

Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng, những đam mê, và những tâm niệm. Sự nhận biết sáng tỏ này ban tặng hạnh phúc chân thật trong suốt cuộc sống này, vào thời điểm chết, và trong những đời sống tương lai cho tới khi giác ngộ tâm linh tối hậu –đó là trạng thái của Phật quả. Trí tuệ này phát triển trí tuệ bát nhãđại bi phổ quát (= mọi thời , mọi nơi).

Phật-pháp quan tâm đến bản chất tự nội sâu thẳm nhất của chúng ta, được gọi là khoa học nội minh. Đây là tên truyền thống của cái mà ở phương Tây người ta gọi là Phật-giáo. Từ ngữ Tây tạng được chuyển ngữ trong những ngôn ngữ Tây phương thành ‘Phật-giáo’ là nangpa sangyepai cho. Hai thuật ngữ cuối đi chung với nhau có nghĩa là Phật-pháp, hoặc Pháp của sự tỉnh giác. ‘Pháp’ trong ngữ cảnh này ý nói đến ‘giáo pháp’, và chữ ‘Phật’ nói đến nguồn gốc của những giáo pháp này -- Đức Phật lịch sử -- và cũng là sự thật chứng tâm linh ngài chứng đạt, hoặc là Phật quả -- trạng thái Phật. Nangpa ý nói ‘nội tâm’ và nhấn mạnh cái dữ kiện rằng là những giáo pháp này quan tâm không quá nhiều đến cái thân vật lí và thế giới bên ngoài như bằng quan tâm với cái tâm đang an trú ở đó, bởi vì mục đích chính của giáo phápcung cấp tịch lạc tâm ý, trạng thái an vui mạnh giỏi, và giải thoát. Thế nên Phật-pháp là khoa học hướng nội, hoặc khoa học của cái bên trong, được hiểu là khoa học của tâm. (Hình bên: Kalu Rinpoche)

Sự Truyền Thừa của Ngữ và Tâm

Tất cả những lời của Phật đã được ghi lại trong chữ viết và đã được giữ gìn trong truyền thống Tây tạng trong một bộ sưu tập gồm 108 đại tập được gọi là KANGYUR, nó có nghĩa là ‘ bản dịch của những lời của Phật’. Kangyur có chứa những văn bản được gọi là kinh (sutras) chúng là nền tảng của hai mức độ đầu của giáo pháp, Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana). Kangyur cũng chứa các văn bản được gọi là tantras (Mật điển), chúng là căn bản của mức độ thứ ba của giáo pháp, Kim cương thừa (Vajrayana).

Cộng thêm vào Kangyur vốn tạo thành kinh tạng căn bản (basic canon) của truyền thống, là [Tengyur] tất cả những luận giải kinh điển (commentaries) và những luận giải chuyên đề (treatises) mà những trí giả tiên phong về tuệ và giáo (leading sages), những học giả (scholars), những thành tựu giả (adept; Skt. siddha) một cách kế tiếp đã biên tập kết hợp để làm sáng tỏ những giáo pháp của Phật. Bộ sưu tập này được gọi là TENGYUR, nó có nghĩa là ‘bản dịch của tất cả những luận giải’. Bộ sưu tập toàn bộ này lúc khởi đầu có chứa 240 bộ sách (volumes), nhưng chúng chỉ còn lại 215 ngày hôm nay. Cộng thêm vào Kangyur và Tengyur, có hàng ngàn bộ sách của các luận giải viết bởi những học giảthành tựu giả Tây Tạng. Bộ sưu tập này được biết đến trong cái tên là SUNGBUM.

Tất cả những giáo pháp của Phật dâng hiến một con đường của tỉnh thức, của giải thoát xa lìa những huyễn tượng của vô minh và những phiền não (phiền động não loạn) mà những huyễn tượng này tạo ra do dẫn dắt khuyến dụ. Những giáo pháp này là những thuốc giải cho ba chất độc tâm ý căn bản của tham đắm, sân hậnvô minh, và tất cả những cảm xúc đang tạo ái luyến [=yêu thương vướng mắc : resulting afflictive emotions|| affliations || nó khác với đại bi --yêu thương tự nhiên không vướng mắc:compassion].Trong nhiều những nhóm phụ và và những kết hợp của chúng, ba chất độc căn bản này có thể tạo thành tới 84 000 loại của những phiền não tâm ý.

Giáo pháp của các bản kinh được thành lập bởi ba bộ sưu tập: luật (vinaya), hoặc là bộ sưu tập về giới luật; kinh (sutra), hoặc là bộ sưu tập về những ngữ giáo; và luận về thắng pháp (abhidharma), hoặc là bộ sưu tập về thật tại. Ba bộ sưu tập này được xem xét như những thuốc giải được áp dụng cho từng mỗi chất độc của ba chất độc tâm ý căn bản.

[The sutra teachings are made up of three collections: the vinaya, or collection on discipline; the sutras, or collection of sayings; and the abhidharma, or collection on reality.These three collections are considered remedies to be applied to each of the three basic mental poisons].

Luật, nó làm cho hiểu được một cách trong sáng tinh thần của giới luật(= khuôn phép) và những quy định của giới luật, là thuốc giải cho 21000 loại của tham đắm (desire). Bộ sưu tập về kinh là một tường thuật ghi chép của những giáo pháp đã được Phật Sakyamuni giảng ở những nơi và những hoàn cảnh khác nhau. Nó là thuốc giải 21000 loại của căm giận, thù ghét (hatred). Luận về thắng pháp (A tì đạt ma; Abhidharma) là một sự giải thích của bản chất của thật tại (reality), hiện hữu ( existence ; tồn tại), thế giới và những cá thể (individuals); nó hoá giải được 21000 loại của vô minh (ignorance). Những giáo pháp Tantra (tantra=‘ tương tục’) lập thành Kim cương thừa (Vajrayana) và được xem xét như thuốc giải cho 21000 loại của những kết hợp của ba chất độc tâm ý.

Thật sẽ là khó khăn để học tất cả những giáo pháp này một cách đầy đủ, nhưng những vị lạt matruyền thừa đã truyền giao chúng ta bản chất căn bản của những giáo pháp trong một hình tướng có thể hiểu được một cách dễ dàng của những chỉ dạy bằng lời trực tiếp. Tất cả những giáo pháp của Phật đã được truyền giao trong chữ viết xuyên qua những bản văn này, nhưng cũng trong tâm xuyên qua sự thật chứng của những lạt matruyền thừa cho tới ngày nay bởi một sự truyền thừa không gián đoạn từ đạo sư tới đệ tử.Trong dòng truyền thừa Kagyu (truyền thống thực hành thiền quán –‘ the tradition of practice’) một mình thôi (alone), đã có một đại hải của những thành tựu giả trải nhiều thế kỉ, một số lượng rất lớn của những hữu tình đã đi đến sự tỉnh giác tối thượng (tối thượng giác). Ngay cả ngày hôm nay, có những vị đạo sư đã đạt được thật chứng toàn hảo của những giáo pháp này. Những phương diện muôn vàn khác nhau của sự truyền thừathành tựu của họ vẫn còn được giữ gìn nguyên vẹn cho đến hiện nay; những giáo pháp của họ bằng cách đó có thể đi đến chúng ta trong sự toàn thể của chúng, trong lí thuyết cũng như trong thực hành. Điều đó còn tuỳ thuộc vào chúng tatrí tuệ (intelligence), can đảm, và năng lực để thực hành những chỉ dạy của những đạo sư này.

2. Tâm là gì ?

Chỉ thật chứng nghĩa lí của tâm

Bao gồm tất cả nhận biết sáng tỏ;

Trong khi đó nhận biết sáng tỏ mỗi sự sự vật vật

không thật chứng nghĩa lí của tâm

Đó là cái tệ hại đệ nhất (vô minh).

Jamgon Kongtrul Lodro Thaye.

Bản tóm tắt của những điểm bản chất căn bản.

(The Outline of Essential Points)

Mặc dầu chúng ta tất cả đều có cảm thức có một cái tâm và có sự đang hiện hữu, những nhận biết sáng tỏ của chúng ta về tâm của chúng tachúng ta hiện hữu như thế nào thì nói chung đều mơ hồ và bị nhầm lẫn. Chúng ta đúng khi nói, ‘Tôi có một tâm hoặc tâm thức’, ‘Tôi là’, ‘Tôi hiện hữu’; Chúng ta đồng nhất chúng ta với một ‘tôi’ (a ‘me’ , khách thể), một ‘Tôi’ (an ‘I’chủ thể) mà chúng ta gán cho chúng những tính đức (=phẩm tính). Nhưng chúng ta chẳng nhận biết sáng tỏ bản chất của tâm này, cũng chẳng bản chất của ‘tôi’ này (this ‘me’ | ‘tôi’ khách thể). Chúng ta không nhận biết sáng tỏ chúng gồm có những gì, chúng vận hành như thế nào, hoặc chúng ta thật sự là ai hoặc là gì.

Sự nghịch thường căn bản (The fundamental paradox)

Trong tiến trình tìm kiếm để thấy tâm của chúng ta, một cách khởi đầu điều quan trọng nhất là sẽ thật chứng bản chất của tâm bằng tra vấn, ở mức sâu thẳm nhất, chúng ta thật sự là gì. Những người đó thật sự khảo sát tâm của họ và xem xét nó là gì, nói một cách cực đoan là những người hiếm có, và đối với những người đó, công cuộc tìm kiếm chứng tỏ khó khăn. Trong khi chúng ta tìm kiếmquan sát cái mà tâm của chúng ta là, chúng ta vẫn thường không thật sự càng lúc càng gần tâm hơn ( we do not actually close in on it); chúng ta không thật sự đi tới được một sự hiểu biết sáng tỏ của tâm.

Một toàn cảnh khách quan khoa học, không nghi ngờ, có thể dâng hiến nhiều trả lời hướng tới một định nghĩa của tâm. Nhưng đó không là loại trí tuệ chúng ta đang nói đến ở đây. Vấn đề căn bản đưa ra là rằng đó là tâm chẳng có thể nhận biết sáng tỏ chính nó, bởi vì kẻ tìm kiếm, chủ thể, là tâm chính nó, và đối tượng (khách thể) nó muốn khảo sát cũng là tâm. Có một điều nghịch thường ở đây: tôi có thể đi tìm chính tôi mỗi nơi, tìm kiếm trên khắp thế giới, mà chẳng bao giờ tìm thấy được chính tôi, bởi vì tôi là cái mà tôi tìm kiếm.

Vấn đề thì giống như khi cố gắng nhìn thấy mặt của chính chúng ta: hai mắt của chúng ta đều rất gần gũi với mặt, nhưng hai mắt không thể nhìn thấy mặt nhiều hơn một chút nào so với hai mắt khi nhìn chính hai mắt. Chúng ta chẵng chợt nhiên nhận biết sáng tỏ chính tâm của chúng ta một cách dễ thấy bởi vì nó quá gần gũi. Một tục ngữ về Pháp nói, ‘Con mắt không thể nhìn thấy chính con ngươi của nó’. Cũng giống thế, chính tâm của chúng ta không có khả năng để thấy chính nó; nó thì gần gũi như thế, thân mật như thế, rằng chúng ta chẳng thể phân biệt nhận biết sáng tỏ nó.

Chúng ta cần biết thay đổi nhanh chóng toàn cảnh khách quan như thế nào. Để thấy mặt của chúng ta, chúng ta sử dụng một gương. Để nghiên cứu chính tâm của chúng ta, chúng ta cần một phương pháp nó có chức năng giống như một gương, để làm chúng ta có thể thật chứng thật tại tâm. (In order to study our own mind, we need a method that functions like a mirror, to allow us to recognize mind) (recognize: realize or accept the reality of). Phương pháp này là Pháp được truyền thừa tới chúng ta bởi một vị thầy tâm linh.

Chính là trong sự quan liên đến giáo phápthiện tri thức này hoặc vị thầy tâm linh mà tâm sẽ có khả năng thức tỉnh tiến dầntới bản chất thật của nó và cuối cùng vượt trên cái nghịch lí khởi đầu bằng thật chứng một cách thế khác của trí tuệ. Sự khám phá này được thành tựu bằng vài loại thực tập khác nhau được nhận biết sáng tỏ trong trạng thái thiền định ( This discovery is effected by various practices known as meditation || as meditation=in the state of meditation)

Trong Cuộc Tìm Kiếm Của Tâm

Tâm là một sự vật lạ lùng. Những người Á châu có truyền thống đặt vị trí nó ở trung tâm của thân thể, ở mức ngang với trái tim. Những người Tây phương đều hiểu tâm được định vị ở trong đầu hoặc não. Mặc dầu những quan điểm khác biệt được biện giải, những phác họa chỉ định này thì không thích hợp (Although different viewpoints are justified, these designations are inadequate). Nói một cách căn bản, tâm ở trong tim không còn thật hơn là nó ở trong não (Basically, mind is no more in the heart than it is in the brain). Tâm có mặt trong thân thể, nhưng đó chỉ là một huyễn tượng rằng tâm có thể được định vị trí ở trong nơi này hoặc nơi kia.Một cách bản chất căn bản, chúng ta không thể nói rằng tâm được tìm thấy trong trạng thái một nơi chốn đặc biệt nào trong người hoặc bất cứ nơi nào cả.

Sự tìm kiếm tâm thì không dễ bởi vì, có thêm cái nghịch thường bởi nó chủ thể nhận biết không thể nhận biết chính nó, bản chất căn bản của tâm là không thể miêu tả được. Nó không có hình tướng, không màu sắc, cũng chẳng có bất cứ một đặc hữu khác có thể đưa chúng ta kết luận được : Đó là cái tâm là. (That’s what it is)

 Thêm vào đó chúng ta có thể phát triển một trải nghiệm của bản chất của tâm của chúng ta bằng cách hỏi chính chúng ta về cái gì đang làm công cuộc quan sát: người quan sát, người nhận biết, chủ thể đang trải nghiệm những tâm niệm và những cảm thọ khác nhau. Ở nơi nào một cách chính xác nó có thể được tìm thấy? Nó là gì? Nó là một vấn đề của sự quan sát chính tâm của chúng ta: Nó ở đâu? Tôi là ai? Tôi là gì? Thân và tâm giống nhau hay khác nhau? Những trải nghiệm của tôi diễn ra bên trong hoặc bên ngoài tâm của tôi? Tâm và những tâm niệm của nó thì khác biệt hoặc chúng là một và như nhau? Nếu đúng thế, như thế nào? Nếu không, như thế nào? Sự tìm kiếm này được thực hiện trong thiền định, trong sự liên kết chặt chẽ với một người hướng dẫn có đủ tiêu chuẩn, người có thể nói cho chúng ta biết cái gì thì đúng và cái gì là nhầm lẫn. Tiến trình có thể cần vài tháng hoặc ngay cả đến vài năm.

Khi mà công cuộc tìm kiếm này đi sâu thêm, vị thầy tâm linh chỉ dạy chúng ta cách tiến nhanh và vững đối với trải nghiệm của bản chất hiện hoạt của tâm. Để hiểu được và thật chứng thì thật là khó vì tâm chẳng có thể được tóm bắt xuyên qua các ý niệm hoặc các biểu tượng miêu tả. Nghiên cứu chính yếu của tâm chẳng thể được làm xuyên qua lí thuyết; chúng ta cần trải nghiệm thực tế của thiền định, quan sát tâm thêm nữa và thêm nữa, để thâm nhập bản chất thực của tâm.

Trong thực hành thiền định, có một tiếp cận hai lần: chúng ta có thể nói một tiếp cận là phân tích (quán tuệ) và một tiếp cận khác là trầm tư (quán chỉ). Cái thứ nhất thì được lập bởi những câu hỏi giống như những câu chúng ta hỏi trước đây. Nếu chúng ta thực hiện loại tìm kiếm này một cách cương quyết, trong khi được hướng dẫn một cách thành thạo, một sự hiểu biết sáng tỏ chắc chắn sẽ phát triển.

Trong cách tiếp cận thứ nhì, tâm thường trú một cách dễ thấy trong chính tính viên minh quang chiếu của nó, không có cưỡng bách hoặc loay hoay xoay sở. Thực hành này vượt trên những hình tướng trước đây của phân tích, bằng cách làm chúng ta rời khỏi lĩnh vực của khái niệm và khai mở chúng ta tới một trải nghiệm tức thời.Vào lúc kết thúc của những thiền định này, chúng ta khám phá tâm có bản chất căn bảntính không. Đó là, tâm thì hoàn toàn rỗng thông thiếu vắng tất cả những tính quyết định và những đặc hữu tỉ dụ như hình tượng, màu sắc hoặc phương diện, và bản chất của nó thì vượt ngoài những biểu tượng miêu tả, những khái niệm, những tên gọi, và những hình tượng. Để cố gắng gợi hình ảnh cho tâm về sự thật chứng của tính không, chúng ta có thể so sánh tính không với trạng thái phi quyết định tính của hư không: tâm thì rỗng thông như hư không [tâm thì chân không diệu viên như hư không]. Nhưng đây chỉ là một khái niệm tâm ý (image=mental concept), và, như chúng ta sẽ thấy, tâm không chỉ chân không mà còn diệu viên.

Một cách tạm thời, tôi muốn nhấn mạnh trí tuệ của tâm, cũng như những thành quả của những trí tuệ như thế, quan trọng như thế nào. Tâm là cái chúng ta là. Tâm là cái đang trải nghiệm hạnh phúcđau thương. Tâm là cái đang trải nghiệm những tâm niệm và những cảm thọ khác nhau; tâm là cái là chủ thể tới những cảm xúc vui thích, thú vị hoặc không vui thích, không thú vị, cái đang trải nghiệm tham, sân, và các thứ.

Một sự nhận biết sáng tỏ của bản chất của tâm là tiến trình giải thoát bởi vì nó làm chúng ta chẳng còn can dự vào những huyễn tượng và hiệu quảthoát khỏi những nguồn gốc của đau thương, sợ hãi, và những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hãy lấy một tỉ dụ. Nếu chúng ta có một huyễn tượng rằng một kẻ hay gây tổn hại là một kẻ trợ giúp, thì kẻ này có thể lường gạt chúng ta, lợi dụng chúng ta, và gây ra tổn hại cho chúng ta. Nhưng ngay khi chúng ta nhận định ra kẻ này tác hại, chúng ta sẽ không bị lừa dối; trong tiến trình lột mặt nạ kẻ này, chúng ta có thể tránh sa xuống thành nạn nhân do những hành động độc ác bất lương của kẻ này. Kẻ tạo tác hại ở đây là cái biết sai (= vô minh) của cái chúng ta thật sự là, hoặc, một cách chính xác hơn, huyễn tượng của một bản ngã kiêu ngạo, của một bản ngã. Trí tuệ lột mặt nạ bản ngã này là sự nhận biết sáng tỏ của bản chất của tâm; nó giải thoát chúng ta thoát khỏi những huyễn tượng và tiến trình lệ thuộc nhân duyên đầy đau đớn (= tiến trình xấp ngửa theo đời). Sự hiểu biết sáng tỏ này của tâm là nền tảng của Phật pháp và tất cả những giáo pháp của Phật pháp.

3. Viên giác và Huyễn tượng là hai trạng thái của một tâm.

Chừng nào tâm chưa được thật chứng, bánh xe của hữu -- của sinh tử-- vẫn quay.

Khi tâm được nhận biết sáng tỏ, trạng thái của Phật chẳng là gì khác hơn tâm đó.

Chẳng có cái gì có thể được miêu tả ở trong trạng thái hoặc hiện hữu hoặc không hiện hữu .

Nguyện bản chất của thật tại, bản chất thật của Phật tâm, được thật chứng.

--[The Third Karmapa, Đại Thủ Ấn: Đại LạcTự Do.]

Viên Giác và Huyễn Tượng

Tâm có hai dung mạo, hai vấn đề dung mạo , chúng là hai phương diện của một thật tại. Hai phương diện này là viên giác (=giác ngộ) và huyễn tượng.

Viên giáctrạng thái của tâm thanh tịnh. Nó là sự nhận biết sáng tỏ không có tính nhị nguyên đối đãi và được gọi là trí tuệ bản nguyên, bản trí. Những trải nghiệm của nó là có thật; đó là chúng không có huyễn tượng. Tâm thanh tịnh thì tự do và có nhiều tính đức từ vô thủy.

Huyễn tượng là trạng thái của tâm không thanh tịnh. Cách thế trí tuệ của nó là có tính lưỡng biệt quan trọng hoặc là nhị nguyên đối đãi, tính phân hai; nó là ‘tâm thức bị điều kiện hoá’, tâm thức bị lệ thuộc nhân duyên. Những trải nghiệm của nó đều bị nhơ nhuốm bởi những huyễn tượng.Tâm không thanh tịnh thì bị lệ thuộc nhân duyên và từ vô thủy đem đến quá nhiều đau thương.

Những hữu tình loại bình thường đều trải nghiệm trạng thái này của cái tâm bị huyễn tượng, không thanh tịnh, trong trạng thái tập quán của chúng. Tâm viên giác, thanh tịnh là một trạng thái trong đó tâm thật chứng bản chất của chính nó trong trạng thái tự do chẳng còn vướng mắc những nhân duyên do tập quán và sự đau thương đồng hành trong tâm với chúng. Đây là trạng thái viên giác của một vị phật.

Khi tâm của chúng ta ở trong trạng thái bị huyễn tượng, không thanh tịnh, chúng ta là những hữu tình loại bình thường những kẻ du hành xuyên qua những cõi khác nhau của tâm thức bị lệ thuộc nhân duyên. Sự chuyển cư xuyên qua các cõi của tâm trong những cõi này tạo nên những vòng quay không có giới hạn trong cái hiện hữu quay vòng, lệ thuộc nhân duyên, hoặc vòng quay của những thân thế cuộc đời—samsara trong tiếng Phạn, quen gọi bánh xe luân hồi.

Khi tâm được tịnh hoá tất cả những huyễn tượng của luân hồi sinh tử, tâm không còn chuyển cư xuyên qua các cõi nữa. Đây là trạng thái viên giác của một vị phật, nó là trải nghiệm của sự tịnh hoá có tính bản chất căn bản của chính tâm của chúng ta, của tính phật của chúng ta. Tất cả hữu tình, chúng hiện hữu duyên hội là bất cứ gì, chúng đều có tính phật. Đây là lí do chúng ta có thể tất cả đều thật chứng tính phật. Đó là bởi vì mỗi chúng ta sở hữu tính phật thế nên có thể chứng đạt viên giác. Nếu chúng ta không có sẵn tính phật, chúng ta sẽ không bao giờ có thể thật chứng tính phật.

Như thế, trạng thái bình thườngtrạng thái viên giác được phân biệt rõ ràng chỉ bởi sự không thanh tịnh hoặc sự thanh tịnh của tâm, bằng vào sự hiện diện hoặc sự vắng mặt của những huyễn tượng.Tâm hiện tại của chúng ta đã có sẵn những tính đức của phật quả (buddhahood); những tính đức này an trụ trong tâm. Chúng là tính thanh tịnh của tâm. Kém may mắn thay, những tính đức viên giác này không thể thấy được đối với chúng ta bởi vì chúng bị che giấu bởi những bao phủ, những ngăn che và những nhơ nhuốm thuộc nhiều loại khác nhau.

Phật Sakyamuni đã dạy:

Tính phật hiện diện trong tất cả hữu tình,

Nhưng bị bao phủ bởi những huyễn tượng chợt đến, chợt đi.

Được tịnh hoá, tất cả hữu tình đúng thật là Phật.

Khoảng cách giữa trạng thái bình thườngtrạng thái ‘viên giác’ là khoảng cách biệt lập vô minh đối với trí tuệ của tính thanh tịnh này của tâm.Trong trạng thái bình thường, nó không được nhận biết sáng tỏ.Trong trạng thái viên giác, nó được thật chứng trọn vẹn.Tình huống trong đó tâm thì biết sai, vô minh, về tính đức hiện hoạt thật của tâm là cái chúng ta gọi là căn bản vô minh. Trong thật chứng tính thâm sâu của nó, tâm được giải thoát xa lìa vô minh này, xa lìa những huyễn tượng và sự lệ thuộc nhân duyênvô minh đó tạo lập, và như thế trực nhập trạng thái viên giác vô duyên được gọi là giải thoát.

Tất cả phật pháp và sự thực hành phật pháp đều tham dự vào tiến trình tịnh hoá, ‘tiến trình giải trừ huyễn tượng’ cái tâm này, và tiến hành tiến trình từ một trạng thái bị nhơ nhuốm tới một trạng thái không bị nhơ nhuốm, từ huyễn tượng tới viên giác.

Phụ lục

Bồ tát Long Thọ --
Ca Tụng Pháp Giới
Tán Pháp Giới Tụng 

 
 Tôi kính lễ pháp giới
 Trú trong mỗi hữu tình
 Nhưng họ không nhận biết
 Nên nhân duyên ba cõi
 [cõi dục , cõi sắc , cõi vô sắc] [Tụng 1]

 Do tịnh hóa vô-minh
 Nguyên-nhân tâm ba cõi [tâm=a-lại-da thức]
 Tịnh hóa là niết-bàn 
 Và hơn nữa : pháp-thân [Tụng 2]

 ‘Vô-thường’, ‘khổ’, ‘không’
 Cả ba tịnh hóa tâm
 Pháp tốt nhất tịnh tâm
 Là pháp vô tự-tính [Tụng 26]
 Giác chẳng xa, chẳng gần ,
 Và chẳng đến, chẳng đi
 Trú: hoặc thấy, không thấy ,
 Trong mù sương phiền-não [Tụng 49]
 
Thật-chứng trí bát-nhã
 Đạt vô-thượng tịch-tĩnh
 Thế nên kinh tạng nói:
 Trú : tuệ-tri chính mình . [Tụng 50]
 [pháp giới = phật tính =…] [ĐHP dịch] 

Nagarjuna—In Praise of Dharmadhatu
[Commentary by Karmapa the third ,Translated &Introduced by
 Karl Brunnholzl -2007 ]
 
 I bow to you, the dharmadhatu ,
 Who resides in every sentient being ,
 But if they aren’t aware of you
 They circle through this triple being [Stanza 1]

 Due to just that being purified
 What is such circling’s cause ,
 This very purity is then nirvana.
 Likewise, dharmakaya is just this . [Stanza 2]

 ‘Impermanence’,’suffering’, ‘empty’,
 These three, they purify the mind .
 The dharma purifying mind the best
 Is the lack of any nature . [Stanza 26]

 Enlightenment is neither far or near ,
 And neither does it come nor go.
 It’s whether it is seen or not
 Right in the midst of afflictions. [Stanza 49]

 By dwelling in the lamp of prajna ,
 It turns into peace supreme.
 So the collection of sutras says :
 ‘By exploring your self, you should rest!’ [Stanza 50]

Kalu Rinpoche

One Mind, Two States: Enlightenment and Illusion

As long as [mind] is not recognized, the wheel of existence turns.

When this is understood, the state of Buddha is nothing other than that.

There is nothing that can be described as either existing or not existing.

May the nature of reality, the true nature of the Buddha mind, be recognized.

[The Third Karmapa, Mahamudra: Boundless Joy and Freedom.]

Mind has two faces, two facets, which are two aspects of one reality. These are enlightenment and illusion.

Enlightenment is the state of pure mind. It is nondualistic knowing, and is called primordial wisdom. Its experiences are authentic; that is, they are without illusion. Pure mind is free and endowed with numerous qualities.

Illusion is the state of impure mind. Its mode of knowledge is dichotomous or dualistic; it is the ‘conditioned consciousness’. Its experiences are tainted by illusions. Impure mind is conditioned and endowed with much suffering.

Ordinary beings experience this state of impure, deluded mind as their habitual state. Pure, enlightened mind is a state in which mind realizes its own nature as free of habitual conditions and the suffering associated with them. This is the enlightened state of a buddha.

When our mind is in its impure, deluded state, we are ordinary beings who move through different realms of conditioned consciousness.The transmigrations of the mind within these realms make up their indefinite rounds in conditioned, cyclic existence, or the cycle of lives – samsara in Sanskrit.

When it is purified of all samsaric illusion, the mind no longer transmigrates. This is the enlightened state of a buddha, which is experience of the essential purity of our own mind, of our buddha nature. All beings, whatever they happen to be, have buddha nature. This is the reason we can all realize buddha nature. It is because we each possess buddha nature that it is possible to attain enlightenment. If we did not already have buddha nature, we would never be able to realize it.

So, the ordinary state and the enlightened state are distinguished only by the impurity or purity of mind, by the presence or absence of illusions. Our present mind already has the qualities of

buddhahood; those qualities abide in mind; they are mind’s pure nature.Unfortunately, our enlightened qualities are invisible to us because they are masked by different shrouds, veils, and other kinds of stains.

Buddha Sakyamuni taught:

Buddha nature is present in all beings,

But shrouded by adventious illusions.

Purified, they are truly Buddha. 

The distance between the ordinary state and the ‘enlightened’ state is what separates ignorance from knowledge of this pure nature of mind. In the ordinary state, it is unknown. In the enlightened state, it is fully realized. The situation in which mind is ignorant of its actual nature is what we call fundamental ignorance. In realizing its profound nature, mind is liberated from this ignorance, from the illusions and conditioning that ignorance creates, and so enters the unconditioned enlightened state called liberation.

All Buddhadharma and its practices involve purifying , ‘dis-illusioning’ this mind, and proceeding from a tainted to an untainted state, from illusion to enlightenment.

---------------------------------------------------------------------------

Source: Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.

 

(*)

Đây là câu kệ số 183 trong Kinh Pháp Cú:
(Ban biên tập ghi chú thêm cho rõ nghĩa)

Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy"
(Dhp 183)

“Chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng hành,
tự tịnh kỳ ý,
thị chư Phật giáo”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10131)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10407)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9677)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23600)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11839)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10730)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10068)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21613)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29403)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11387)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12363)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26320)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31013)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25331)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22801)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13046)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21932)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14137)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12433)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11240)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10690)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38057)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13667)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13453)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12343)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12584)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12050)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10724)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33189)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12793)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7389)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12613)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12035)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12868)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11939)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10695)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11358)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11658)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10862)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10797)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10371)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10485)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10702)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10626)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11912)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10691)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12734)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10803)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11379)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11089)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11626)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10512)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11253)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12301)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11158)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11420)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11503)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11293)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11578)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12995)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14172)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11011)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11864)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13156)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11576)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11418)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10931)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11276)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10809)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11055)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10876)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10245)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17104)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10998)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10862)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10404)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11385)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11075)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11379)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10352)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12766)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19245)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19677)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21265)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20313)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19741)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19023)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20460)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21075)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17919)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21813)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant