Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10162)
Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 9]
Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Tôi mong ước nhận định được tất cả những biến hiện
chúng xuất hiện đối với tôi trong trung hữu là những phóng chiếu
của chính tôi; những hiển hiện của chính tâm của tôi.

Liên Hoa Sinh , “Sách Tây Tạng của Người Chết”. (Tử Thư Tây Tạng).

-----------------------

Sẽ không có tái sinh nếu, vào thời điểm chết, chúng ta bị biến mất như một ngọn lửa nến vụt tắt hoặc sự bốc hơi của nước. Nhưng tâm là chân không (emptiness: chân không diệu viên; chân không diệu hữu), và chân không dung thông (the void) không biết cái chết. Vào lúc chết, thân và tâm, chúng được gắn với nhau là những hiện tướng hư huyễn, li biệt; mỗi bên đi đường riêng của nó. Lúc đó, một lần nữa, do bởi năng lực của nghiệp, những căn bản tập khíphiền não tạo lập bởi nhiều tác nhân dẫn chúng ta tới tái sinh vào một trong sáu cõi (cõi người, trời, a tu la, súc sinh, ngạ qủy, địa ngục).

Trung Hữu

Theo Chính Pháp (Dharma) cũng như theo các truyền thống khác, chết không phải là một chấm dứt. Vượt ngoài chết, có một loạt tương tục của các trải nghiệm trong những trạng thái khác biệt được nhận biết gộp lại là trung hữu (bardo). Thuật ngữ Tây Tạng này nguyên văn nghĩa là “giữa hai” (between two), khoảng ở giữa (interval), hoặc sự thông qua, lối thông qua (passage). Những lối thông qua này là tất cả những trạng thái tâm thức đi thông qua. Những liên hoàn của trung hữu (the series of the bardos) tạo thành hiện hữu lưu chuyển hoặc sinh tử lưu chuyển (cyclic existence or samsara)

Những liên hoàn của trung hữu tương ứng với sự chuyển cư của tâm thức từ cuộc đời tới cuộc đời, nhưng cũng tương ứng với những biến hoá hình dáng xảy ra từng mỗi sát na trong những trạng thái tâm thức của chúng ta.

(The series of bardos corresponds to the transmigration of the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness).

Giáo pháp liên quan đến những trung hữu khác biệt được trình bày đặc biệt trong một văn bản truyền thống rất phổ biến, Bardo Thodrol, nguyên văn nghĩa là, “sự hiểu biết thông suốt giải thoát cách tuyệt các trung hữu” (“the understanding that frees from the bardos”), mà ở Tây phương thường được biết nhiều hơn với tên “Tử Thư Tây Tạng”

(The Tibetan Book of the Dead).

Giáo pháp này đưa ra những chỉ giáo thực dụng về làm thế nào tiến qua các trung hữu và dâng hiến một đạo lộ để thật chứng bản chất của những trung hữu này và tự giải thoát chính chúng ta cách tuyệt với các trung hữu.

(It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them)

Mặc dầu “khoảng ở giữa chết và tái sinh” (the interval between death and rebirth) là nghĩa được biết đến nhiều nhất, từ ngữ “trung hữu” (bardo) không những chỉ nói đến thời kì giữa chết và tái sinh, nhưng còn nói đến tất cả những trạng thái hiện hữu tâm thức trải nghiệm.

Thế nên, từ ngữ “trung hữu” cũng được dùng để nói đến dòng đời (life), là trung hữu giữa sinh và chết và là, trong đa số trường hợp, cái thời kì dài nhất của các trung hữu.

Cũng có trung hữu giữa hai tâm niệm (the bardo between two thoughts), hoặc giữa hai trạng thái của tâm thức, nó là cái ngắn nhất của các trung hữu.

Thời kì từ thời điểm nhắm mắt ngủ tới khi thức tỉnh thì được gọi là trung hữu chiêm bao, trong khi trải nghiệm chính cái chết thì được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

(The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death)

 Sau khi sự hô hấp ngừng lại hoàn toàn, có một thời kì khi tâm vẫn ở lại trong một trạng thái toàn thể bất thức thì được gọi là trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không/ chân không diệu viên/ chân không diệu hữu)

(After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness)

Cuối cùng, trung hữu của sinh thành (trung hữu của sinh hữu; trung hữu của tái sinh) là thời kì theo sau trung hữu của tính không, trong thời kì này tâm thức có sự trải nghiệm của một thế giới sau cái chết, nó kéo dài cho tới thời điểm tái sinh.

(Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth)

Bốn Trung Hữu Quan Trọng

Nói vắn tắt, có bốn trung hữu quan trọng từ tiến trình chết tới tái sinh là:

1. Trung hữu từ sinh tới chết, hoặc, trạng thái chúng ta hiện ngay lúc này.

2. Trung hữu của thời điểm chết, tương ứng với lối thông qua từ sống tới chết.

(tương ứng, có thể tạm hiểu là từ sinh tới chết, lối sống ra sao,tỉ dụ vui với thiện hạnh của người, của mình, và buồn với ác hạnh của người, của mình, thì tâm tình vào thời điểm chết tương ứng với thời từ sinh tới chết. ĐHP)

3. Trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không / chân không diệu viên / chân không diệu hữu), thời kì theo sau chết.

4. Trung hữu của tái sinh, giai đoạn giữa trung hữu của tính không và một thời-gian- cuộc-đời khác (another lifetime) là khi chúng ta bắt đầu một trung hữu mới của sinh tới chết.

Sáu trung hữu được nói đến thường xuyên gồm cả hai trung hữu khác ở trong trung hữu của sinh tới chết: trung hữu chiêm baotrung hữu thiền định. Mỗi một trung hữu này tương ứng với những trạng thái của tâm thức sống trọn vẹn trong suốt thời-gian-cuộc-đời này.

Trong những chương theo sau, chúng ta sẽ miêu tả mỗi một trong bốn trung hữu quan trọng này, chúng cùng nhau tạo thành hiện hữu sinh tử lưu chuyển. 

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 1 Đại Sư Tăng Triệu giảng Tính Không

Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 hoặc 378 - 414 ) ( tịch lúc 27 hoặc 31 tuổi) trong Triệu luận , phần Tông Bản Nghĩa:

 “Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội , năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.

Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ BỔN VÔ chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là BỔN VÔ, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì BỔN VÔ này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).

Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.

duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.

Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.

Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy…

Tại sao vậy ? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể , chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là BỔN VÔ.”

( Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch , in trong CHƯ KINH TẬP YẾU , trang 470 - 471) ..

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 2. Tâm như hư không vô sở hữu

Nguồn gốc của Phật pháp là tâm ,
Nguồn gốc của vũ trụ cũng là tâm ,
Người học Phật pháp phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm mình chứ chẳng phải ai khác .

 

…Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là ngài Long Thọ dùng “Hư không vô sở hữu” để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể số lượng, do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả.

Phật pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là TÍNH KHÔNG. KHÔNG này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở hữudung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối,bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “VÔ SỞ HỮU” này dung nạpứng dụng.

Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói năng tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái ‘vô sở hữu’ này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tính thành Phật.

Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi [Cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy] thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao (người và thế giới chiêm bao) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Bản thể của tâm vô sở hữu tức là trống rỗng, vì trống rỗng nên gọi là TÍNH KHÔNG, vì tính không nên cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì chẳng có khứ lai nên gọi là NHƯ LAI, nghĩa là đúng như bản lai; cùng khắp thời gian thì không có gián đoạn sinh diệt nên gọi là NIẾT BÀN.

Vì trống rỗng vô sở hữu chẳng có chỗ để trụ nên gọi là VÔ SỞ TRỤ ; vì trống rỗng vô trụ thì chẳng thể trói buộc nên gọi là GIẢI THOÁT. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, tâm của chúng sinh đều có tính giác ngộ nên gọi là PHẬT TÍNH, cũng gọi là Bồ Đề. Bồ Đề nghĩa là giác ngộ. Nói tóm lại, danh từ thì có muôn ngàn sai biệt khác nhau nhưng nghĩa thì chẳng khác, chỉ là hiển bày thể dụng của tâm mà thôi.

Vì tâm vô sở hữu thì chẳng thể kiến lập, nên Phật nói là VÔ THỦY, chẳng có bắt đầu, cũng gọi là vô sinh. Vì có sinh thì phải có bắt đầu. Vì vô sinh thì không thể kiến lập, nếu có thể kiến lập ắt có sự sinh khởi và bắt đầu, cho nên người chứng quả gọi là NGỘ PHÁP VÔ SINH, cũng gọi là CHỨNG VÔ SINH PHÁP NHẪN. Nói một cách khác, tất cả kinh Phật đều dùng sự hiểu biết của chúng sinh để chứng tỏ tất cả sự vật qua ý thức của bộ não nhận biết đều chẳng phải thật, nên nói VẠN PHÁP DUY TÂM, TẤT CẢ DO TÂM TẠO. Vì tâm có thể tạo là có kiến lập, tức là chẳng thật vậy .

…..

[Lược trích từ “Vũ Trụ Quan thế kỷ 21, Yếu Chỉ Phật Pháp, Yếu Chỉ Trung Quán Luận” của HT Duy Lực ]

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 3. Chủ nghĩa Hư vô

Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch , in 2000, 6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục.

Chân như: Sanskrit: bhuta-tathata; tathata. Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật .
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư Vô chủ Nghĩa (Nihilism)
Chủ nghĩa phủ định tất cả đạo đức,tập quán, chế độ, tôn giáo, hoặc chân lí, giá trị của bất cứ sự vật gì.

Theo “Patrul Rinpoche. Lời vàng của Thầy tôi”. Bản dịch 2008, http:/vietnalanda.org. thì
“Những người theo chủ nghĩa thường hằng (eternalism) tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara và Vishnu.
“những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả, không có tự dogiải thoát
“ Có 360 biểu từ vọng kiến (false view) và 62 biểu từ tà kiến (wrong view)

(biểu từ = statement), có thể gộp chung thành hai nhóm : chủ nghĩa thường hằngchủ nghĩa hư vô (=đoạn diệt; chấm dứt, không có gì cả).
Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lại lợi ích, và ác hạnh không đem lại tổn hại.”

Nếu bạn có một thoáng chút ý niệm về danh từ chân như, bạn sẽ biết bản chất của bạn là tính Bản Phật Phổ Hiền (Nature of Primordial Buddha Samantabhadra)

(Phổ Hiền= All-around Goodness).
Như vậy bạn chấp thuận, tùy thuận, và hỗ trợ (blessing) cho chính cuộc đời bạn, cuộc đời của kẻ khác, hiện hữu tồn sinh, và bạn chung vui xẻ buồn với mọi người, với vạn hữu, chung lưng đấu cật với mọi người để chống lại các thảm họa do con ngườithiên nhiên gây ra (do vô minh, do duyên khởi) và bạn đem lại an-ổn-không-sợ-hãi cho mình, cho người (benediction: vô uý thí)

Một thoáng ý niệm về chân như, giúp bạn nhận thức bạn vốn là đấng phúc đức, tốt lành, thiện hảo, bạn đã gặp chính mình (encounter yourself), gặp bản lai diện mục, “ta về gặp lại tình ta, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân” (Thiền sư Viên Minh).

Ngài Long Thọ và ngài Phật Hộ (Buddhapalita) đều giảng Chân như là thật chứng tuệ tri chính minh bằng tuệ quán không bị nhơ nhuốm. Chân như không phải là do người khác chỉ dạy hoặc do người khác trao cho bạn.

Từ ngữ Phật học ngài Vô Trước ( Asanga 375-430) giảng:

Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám… là đồng nghĩa

------------------------------------

Chú thích thuật ngữ

1.Viết theo “The Tibetan Book of the Dead”, translated by A. F. R. Thurman,

Bantam Books,1994

 “Trung hữu” được dùng tối thiểu theo 3 nghĩa:

(a) nghĩa căn bản thông dụng để nói về toàn thể thời kì giữa chết và tái sinh;

(b) nghĩa kĩ thuật để nói về sáu trung hữu: trung hữu đời sống, trung hữu chiêm bao, trung hữu thiền định, trung hữu điểm chết, trung hữu thật tại (=pháp tánh), và trung hữu tái sinh ;

(c) và theo nghĩa “ một giai đoạn tiến triển của một trung hữu”, thì chính nó cũng được gọi là một trung hữu, tuy nó ở trong sự trải nghiệm của một giai đoạn riêng biệt trong một trong sáu trung hữu (= một giai đoạn phát triển nhỏ -- của một trong sáu trung hữu--, thì cũng gọi là một trung hữu )

“Between” is used in at least thre e senses: its basic colloquial sense of the whole period between death and rebirth; its technical sense in the set of the six betweens, the life, dream, meditation, death-point, reality, and existence betweens;and in the sense of “phase of a between”, where the experience of a particular period in one of the six betweens is itself called a between.

2. Trung hữu tính không (emptiness between)= trung hữu pháp tánh (dharmata between) = trung hữu thật tại (reality between)

3. Ngài Long Thọ : Duyên khởi = Tính không = Trung đạo = Như huyễn

4. Ngài Tăng Triệu : Bổn Vô= Thật Tướng = Pháp Tánh = Tánh Không = Duyên Hội

5. “Thanh Tịnh Đạo” của Ngài Phật Minh / Phật Âm (Buddhaghosa), Thích Nữ Trí Hải dịch, có giảng (trang 960 , quyển 2 , đoạn 250:

“Ở đây, trở thành gọi là hữu…
Chính tiến trình nghiệp là hữu, thì gọi là nghiệp hữu.
Cũng vậy, chính tiến trình tái sanh là hữu thì gọi là sanh hữu.
Và ở đây tái sanh là hữu vì nó hiện hữu…
Nghiệp cần được hiểu là hữu vì nó đem lại hữu hay sự tái sanh…
Tất cả nghiệp đưa đến tái sanh đều là nghiệp hữu…
Sanh hữunói vắn tắt các uẩn do nghiệp sanh.” 

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

From Life to Life: Transitions and the Bardo

May I recognize all the manifestations that appear to me in the bardo as being my own projections; emanations of my own mind.

Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

--------------------

There would be no rebirth if, at the moment of death, we disappeared like a candle flame going out or water evaporating. But mind is emptiness, and the void does not know death. At death , body and mind, attached as they are to illusory appearances, separate; each goes its own way. Then once again, by the power of karma, basic tendencies and afflictions caused by various agents lead us to be reborn in one of the six realms.

Bardo

According to Dharma as well as other traditions, death is not an end. Beyond death, there is a continuous series of experiences in different states known collectively as the bardo. This Tibetan term literally means “ between two” , “interval”, or “passage”. These passages are all the states that the consciousness passes through. The series of bardos makes up cyclic existence, or samsara.

The series of bardos corresponds to the transmigrationof the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness. The teachings relating to the different bardos are presented in particular in the well-known tradition text, the Bardo Thodroll, literally , “ the understanding that frees from the bardos”, better known in the West as “ The Tibetan Book of the Dead ”. It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them.

Even though “the intrval between death and rebirth” is its best-known meaning, the word “bardo” refers not only to that period between death and rebirth, but to all the existential states the consciousness goes through.Therefore, the word is also used to refer to life, which is the bardo between birth and death and is, in most cases, the longest life of the bardos. There is also the bardo between two thoughts, or between two states of consciousness, which is the shortest of the bardos. The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death. After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness. Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth.

The Four Great Bardos

Briefly, the four great bardos from the process of dying to being reborn are:

1. The bardo of birth to death, or, the state we are in right now.

2. The bardo of the moment of death, corresponding to the passage from life to death.

3. The bardo of emptiness, the period following death.

4. The bardo of becoming, the stage between the bardo of emptiness and another lifetime in which we begin a new bardo of birth to death.

The six bardos frequently referred to include two others in the bardo of birth to death: the dream bardo and the meditation bardo. They each correspond to states of consciousness lived out during this lifetime.

In the following chapters we will describe each of the four great bardos, which together make up cyclic or samsaric existence.

---------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9786)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10336)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9793)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9177)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20439)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8749)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9188)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9448)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8352)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9389)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7967)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8617)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9629)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9507)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9499)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9067)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9637)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27115)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32701)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27751)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9389)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28143)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23270)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant