Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý nghĩa Vu Lan, an cư, tự tứ, Bố tátthuyết giới

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10030)
Ý nghĩa Vu Lan, an cư, tự tứ, Bố tát và thuyết giới

Ý NGHĨA VU LAN, AN CƯ, TỰ TỨ, BỐ TÁTTHUYẾT GIỚI
HT. Thích Quang Nhuận 

Cha mẹ suốt đời lo cho con cái không kể nhọc nhằn, lam lũ. Ba năm nhủ bộ chín tháng cưu mang, công đức ấy chẳng thể lấy gì mà so sánh được, bút mực nào mà tả cho hết được, và không lời lẽ nào tả cho xong được. Bởi thế, người xưa thường mượn hình ảnh núi Thái sơn, nước trong nguồn để so sánh với tình cha nghĩa mẹ. 

Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Ai đã từng làm cha mẹ thì mới biết được công ơn cha mẹ cao sâu như thế nào. Suốt đời lặng lẽ, âm thầm hi sinh cho con cái, công đức cha mẹ thậm thâm biết nhường nào!

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ

Hiểu được như vậy, chúng ta phải thành tâm làm thế nào để báo đáp ân đức cha mẹcha mẹ còn hay mất.

Bất luận một Tôn giáo hay một triết lí nào đều phải lấy chữ Hiếu làm đầu. Một người mà bất hiếu với cha mẹ thì trông mong gì người ấy trở thành một người tốt cho xã hội!

Nếu một người mà bất hiếu đối với cha mẹ mà hiếu kính với mọi người thì âu đó cũng chỉ để cầu danh cầu lợi mà thôi. Thiên kinh vạn quyển đều lấy chữ Hiếu làm đầu, vậy người Phật tử há lại đối xử bất hiếu với cha mẹ được hay sao?!

Kinh Thi có câu rất cảm động: "Phụ hề sinh ngã mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực". Có nghĩa là: Cha sinh ra ta mẹ nuôi nấng ta, than ôi! Cha mẹ sinh ta nhọc nhằn, muốn báo ân sâu ấy như trời cao không tột.

Tất cả những lời đó nhằm khuyên chúng ta sống phải hiếu đạo với cha mẹ. Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ, không một niệm xao lảng. Có như thế chúng ta mới có thể báo đền công ân muôn một của cha mẹ trong kiếp này. Nhưng Phật tử báo hiếu bằng cách nào? Chúng ta tìm hiểu pháp Vu lan bồn sau đây.

I. Nghĩa và tác dụng ngày lễ Vu lan

Vu lan bồn được phiên âm từ tiếng Phạn là Ulambana, Pàli là Avalamba, Tàu dịch là Giải đảo huyền, nghĩa đencởi trói, nghĩa bóng là cứu vớt. Đức Phật chế pháp Vu lan bồn nhằm để cứu vớt chúng sinh đang triền miên đau khổ.

Nguyên nhân đức Phật chế pháp Vu lan bồn: Thời Phật tại thế có đức Mục-kiền-liên tu hành đắc đạo, được sáu phép thần thông muốn độ cha mẹ, Ngài liền dùng thiên nhãn nhìn khắp các cõi nước, thấy mẹ mình đang bị đày đoạ ở địa ngục, không có thức ăn, da nhăn má cọp, thân hình tiều tuỵ như quỷ đói. Ngài vội đem cơm tới cho mẹ nhưng mẹ Ngài vì nghiệp lực quá sâu dày, không thể ăn được. Đức Mục-kiền-liên liền về Tịnh xá để bạch đức Phật và sau đó Thế Tôn đã dạy phép Vu lan bồn.
 
blank
Thực hiện phép Vu lan bồn như thế nào? Đức Phật dạy Ngài Mục-kiền-liên rằng mẹ ông nghiệp ác quá sâu dày không phải một mình ông có thể cứu thoát được, phải nhờ oai lực mười phương thánh tăng cầu nguyện trong ngày lễ Vu lan thì mẹ ông mới giải thoát khỏi địa ngục. Đức Phật đã chọn ngày 15 tháng 07 Âm lịch để làm ngày kỷ niệm lễ Vu lan. Ngày ấy được gọi là ngày Phật hoan hỷ, vì ngày ấy là ngày của mười phương chúng Tăng làm lễ Tự tứ sau ba tháng an cư kiết hạ, công đức của chúng Tăng sau ba tháng an cư này đã được tăng trưởng, vì thế mà đức Phật dạy ngài Mục-kiền-liên lấy ngày này để làm lễ Vu lan, báo đền công ân của cha mẹ.

Đức Mục-kiền-liên đã thực hiện ngày lễ Vu lan này bằng cách mua sắm vật dụng, thiết đại lễ kỳ siêu, thỉnh mười phương tăng thọ trai cầu nguyện, bạt trừ nghiệp chướng cho mẹ mình. Nhờ đó, sau một thời gian, mẹ Ngài Mục-kiền-liên đã giải thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, được sanh lên cõi trời hưởng an vui, phước lạc.

Từ đó ngày lễ báo hiếu Vu lan đã trở thành thông lệ cho tất cả những người con Phật. Hàng năm, cứ đến ngày 15 tháng 07 Âm lịch thì mọi người con Phật đều phải hành lễ báo hiếu. Bất cứ ai cũng đều có thể thiết lễ Vu lan để báo đền công ơn cha mẹ. Có một điều đáng mừng là hiện nay các Phật tử trên đất nước Việt Nam ta, đặc biệtPhật tử tỉnh Thừa Thiên Huế, tất cả đều phát tâm cúng dường chư tăng trong ba tháng an cư để nguyện cầu cho cha mẹ hiện tại cũng như quá cố được ân triêm phước lợi.

Báo hiếu cha mẹ thì không chỉ có ngày lễ Vu lan mới báo hiếu mà phải tâm niệm báo hiếu trong từng giờ, từng phút. Công đức cha mẹ vô lượng nên chúng ta phải dùng tâm vô lượngbáo hiếu, như thế mới có thể phần nào trọn vẹn ý nghĩa. Có hai cách báo hiếu:

Báo hiếu bằng vật chất: Phải hầu hạ, vâng lời cha mẹ, săn sóc nơi ăn, chốn ngủ cho cha mẹ chu đáo. Phật tử khi phụng sự cha mẹ thì không nên chìu theo cha mẹ mà làm điều ác, vì như thế sẽ tạo thêm nghiệp dữ cho cha mẹ. Nếu chìu theo cha mẹ mà làm điều ác thì không phải báo hiếu cha mẹ mà đã phạm vào tội bất hiếu. Cung phụng vật chất cho cha mẹ dù đầy đủ đến đâu cũng chỉ làm cho cha mẹ thoả mãn trong một kiếp, vì thế, Phật tử không nên làm điều ác để cung phụng cha mẹ.

Báo hiếu bằng tinh thần: Người Phật tử phải chú trọng báo hiếu cho cha mẹ bằng tinh thần, phải làm sao cho cha mẹ cảm thấy thư thái, nhẹ nhàng, để dần dần đưa cha mẹ đến với cảm giác an lạc, giải thoát theo tinh thần đạo Phật. Phật tử phải khuyên nhủ cha mẹ quy y Tam Bảo, chánh tín Tam Bảo, phóng sanh, bố thí, bỏ ác, làm lành, giữ giới và tu nhân giải thoát. Có như thế chúng ta mới làm cho cha mẹ yên vui trong hiện tại, được phước báo sanh vào cảnh giới an vui sau khi lâm chung. Có thể chúng ta không có tiền của để thiết lễ cúng dường, cầu nguyện cho cha mẹ, nhưng cách báo hiếu tinh thần thì không cần đến tiền của mà cần nghị lực, nhẫn nhụctình thương. Cách báo hiếu tinh thần là cách báo hiếu tối ưu dành cho những người con chí hiếu, có trí tuệ, đạo đức. Vậy chúng ta đừng nghĩ rằng không có tiền của thì không thể báo hiếu cho cha mẹ, đó là cách nghĩ sai lầm và không hợp với tinh thần đạo Phật.

II. Ý nghĩa An cư

An nghĩa là yên ổn, cư là ở một chỗ. An cư tức là ở yên một chỗ, không sống chỗ này, chỗ kia. Trong khoảng ba tháng, từ ngày 16 tháng 04 Âm lịch đến hết ngày 15 tháng 07 Âm lịch, Tăng chúng phải ở yên một chỗ, nỗ lực toạ thiền tinh tu tịnh giới. Ngoại trừ các việc thuộc Tam Bảo, cha mẹ, Tăng chúng không được tự tiện ra khỏi cương giới. An cư còn gọi là toạ hạ, toạ lạp hoặc kiết hạ. Sách Nghiệp sớ quyển 04 nói: "Thân tâm yên tỉnh gọi là An, đến kỳ ở yên một chỗ gọi là Cư". An cưviệc làm thiết thực của Tăng chúng, thể hiện lòng từ bi đối với chúng sanh và làm nền tảng cho sự tu tập của hàng Phật tử tại gia. Đó là thời gian thích hợp cho hàng Phật tử tại gia tu tập phước đứcbố thí cúng dường.

III. Ý nghĩa Tự tứ
 
blank
Tiếng Phạn gọi là Pravàrana, Pàli gọi là Pavanara, Tàu phiên âm là Bát hoà la, Bát lợi bà thích noa, dịch là Mãn túc, Hỷ duyệt, Tuỳ thỉnh, Tuỳ ý sự... Nghĩa của các từ này là sự thỉnh cầu. Ở đây chỉ cho sự thỉnh cầu người khác nói lên những khuyết điểm của mình. Sự chỉ điểm này được căn cứ trên ba trường hợp: do được thấy, nghe và nghi ngờ. Mục đích của việc Tự tứ cũng giống như việc Thuyết giới, được thực hiện vào ngày trăng tròn, nhưng khác với Thuyết giới có định kỳ nửa tháng, Tự tứ có định kỳ mỗi năm một lần sau ba tháng An cư. Ngày Tự tứ ở nước Việt Nam ta thường được tổ chức vào ngày 14 tháng 07 Âm lịch, ngày cuối cùng của ba tháng An cư kiết hạ. Theo thông lệ, vào ngày Tự tứ tất cả các tỳ kheo đều phải sám hối trước đại tăng những tội đã phạm trong ba sự thấy, nghe, nghi ngờ (Kiến, Văn, Nghi). Sự sám hối này sẽ làm cho chúng Tăng thanh tịnh, tự sanh vui mừng nên gọi là Tự tứ. Chúng Tăng tuy ba tháng An cư kiết hạ thân tâm thanh tịnh, giới luật nghiêm trì nhưng có khi không thấy được lỗi lầm mình đã phạm từ bên trong, vì thế, phải nhờ đại Tăng chỉ bảo mới thấy được lỗi lầm bên trong mà sám hối để được thanh tịnh hoàn toàn. Tự tứphương pháp thực hiện chung cho tất cả Tăng chúng, đức Phật không cho phép biệt chúng Tự tứ. Chúng Tăng phải Tự tứ trong tinh thần hoà hợp gọi là: ”Như pháp hoà hợp Tự tứ".

IV. Ý nghĩa Bố-tát

blankTiếng Phạn gọi là Upavasatha, Pàli gọi là Uposatha, Tàu dịch là Bố-sái-tha, Bố-sái-ta-đà... gọi tắt là Bố-tát. Tàu dịch là Tịnh trú, Thiên túc, Trưởng dưỡng. Theo pháp người xuất gia cứ mỗi nửa tháng một lần vào ngày 14 và 30, Tăng chúng tập trung một chỗ tụng giới kinh khiến tỳ kheo trụ trong tịnh giới, tăng trưởng thiện pháp. Hàng Phật tử tại gia cũng tập trung lại, tháp tùng chúng Tăng mà nghe lại giới pháp mình đã thọ. Như vậy, căn cứ vào việc làm thì gọi là thuyết giới, căn cứ vào công năng của việc làm đó thì gọi là Bố-tát. Bố-tát còn gọi là đoạn tăng trưởng, nghĩa là dứt ác, tăng thiện, còn gọi là Ngã đối thuyết, tức là tự mình sám hối tội lỗi trước mọi người.
 
Lễ Vu lan là phần chính mà chúng ta bàn đến trong bài này, các lễ khác như An cư, Tự tứ, Bố-tát, Thuyết giới là những phần phụ, tuy vậy, chúng tương quan đến sự tu tập của hàng Phật tử tại gia nên cần phải học.

Lễ Vu lan là ngày lễ thiết thực nhất để mọi người con Phật có dịp báo hiếu cha mẹ. Vì miếng cơm, manh áo mà chúng ta làm lụng vất vả suốt đời, có khi không còn thời gian chăm lo cho cha mẹ. Vì vậy, chúng ta hãy dành trọn ngày 15 tháng 07 để lo toan công việc báo hiếu, thiết lễ trai tăng, cầu nguyện cho cha mẹ. Nhờ oai lực của chư Tăng, chắc chắn cha mẹ của mình sẽ được ân triêm lợi lạc, khai tâm chuyển ý mà trở về với Phật Pháp. Là Phật tử, chúng ta không thể không thiết lễ Vu lan để báo đền công ơn cha mẹ, ngoài ra, mọi người con Phật hay không phải con Phật cần phải tận tâm phụng dưỡng cha mẹ khi còn sanh tiền, đừng để phải hối hận như Ngài Tử Lộ đã từng thốt lên rằng:

"Mộc dục tịnh nhi phong bất đình
Tử dục báo nhi thân bất tại."

(Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng
Con muốn dưỡng nhưng cha mẹ không còn nữa).

Nếu cha mẹ không may qua đời thì chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện Tam Bảo tiếp độ cha mẹ sớm sanh về miền Cực Lạc, ngày 15 tháng 07 phải thiết lễ trai tăng cúng dường để nhờ công đức chú nguyện của chư Tăng mà nguyện cầu cho cha mẹ

HT.TQN
(http://www.lieuquanhue.com.vn)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31679)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10535)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11234)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12764)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10815)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16673)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10824)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22976)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12031)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11502)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10694)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12343)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11201)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10029)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12379)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11280)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10468)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10790)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9544)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9502)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12564)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10430)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10525)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9199)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8370)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9024)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14765)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10102)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14605)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10180)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9477)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9277)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15351)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9590)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17450)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19247)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26054)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14812)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10638)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9539)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18688)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12370)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11895)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10762)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13350)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10005)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9397)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15908)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant