Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10909)
Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

LỄ VU LAN NGUYỄN DU LẬP ĐÀN
BẠT ĐỘ CÔ HỒN THẬP LOẠI
Thích Tâm Tôn 

Ai đã từng sống long đong trong bể khổ không cùng cũng như trong hoan lạc chơi vơi, hay từng trải qua những ngày dài quạnh quẽ và những đêm tàn hoang vu, ắt hẳn không sao tránh khỏi trỗi dậy nỗi động lòng dào dạt khiến lệ trào dâng mi khi đọc Văn Tế Thập Loại Cô Hồn đầy ai oán cảm sầu của cụ Nguyễn Du. Một Nguyễn Du thiên tài, song lại là một mảnh đời lận đận và có phần bạc mệnh như chính cuộc đời Kiều. Phải chăng, đó là nghiệp báo lao xao của một kiếp chúng sanh mà ông đã nhìn nhận trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh:

"Mỗi người một nghiệp khác nhau, 
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?"

Nghe ra thấy toàn là chất nhân sinhtâm linh Phật giáo. Và chất Phật giáo ấy có gì lạ, bởi chính ông là một Phật tử trí thức thấm nhuần giáo lý Phật Đà. Hình như cái tư tưởng Phật giáo đã vô hình ứng hiện vào tận nguồn cảm hứng sáng tác cho một nghệ sĩ Nguyễn Du, để tạo nên những áng thi chương lẫy lừng bất hủ. Điều đó đã được thể hiện trọn vẹn trong hai tác phẩm bất tuyệt của ông: Truyện Kiều và Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Cả hai tác phẩm này có thể được xem như là những bản kinh của Phật giáo Việt Nam, mang tính cầu an như truyện Kiều và cầu siêu như Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Nhân Lễ hội Vu Lan xin được lạm bàn về vài áng văn tế của Nguyễn Du, như thể để nhắc lại cái giá trị văn hóa tâm linh Phật giáo tuyệt với mà ông đã thể hiện một cách trọn vẹn về nghĩa cử báo hiếu tình thân và thi ân tế độ phổ đồng. Đó chính là hai mục tiêu trong một ý nghĩa "Giải Đảo Huyền" mà người Phật tử Việt Nam nào vào dịp tiết Trung Nguyên - Lễ hội truyền thống Vu Lan cũng vọng hoài thổn thức.

Đức Phật từng dạy: "Nếu đem nước mắt của hết thảy chúng sanh trong vòng luân hồi từ vô thỉ đến nay tích chứa lại thì nhiều cũng như nước của cả một đại dương". Đức Phậthiện sinh của tinh thần đượm nhuần đức tánh nhân áitừ bi vô lượng. Bằng vào mọi phương tiện, tinh thần nhân ái cao cả đó được Ngài thể hiện một cách tài tình hằng che chở cho tất cả chúng sanh. Tánh đức từ bi vô ngần ấy chính là tinh thần cảm thông với những nỗi thống khổ bất tận mà những chúng sanh tội lỗi và bệnh tật hằng mang. Đức Phật tỏ bày: "Nỗi thống khổ của người cũng chính là nỗi thống khổ của ta, và niềm hạnh phúc của người cũng chính là niềm hạnh phúc của ta." Tình thương cao cả ấy quả là cái đức bạt ngàn của người cha và cái lòng bao la của người mẹ dành cho con thơ tội nghiệp.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam mang theo những tinh ba tươi đẹp nhất để làm tươi mát cho những tâm hồn khốn khổ, đồng thời cũng xúc tác những nguồn tư tưởng phong phú làm trào dâng cho bao trái tim nhân sĩ trí thức Việt Nam. Chỉ có tình thương của đạo Phật mới sản sinh ra những con người giàu đức hiếu sinh, hiếu hòa và giải thoát như Lý Thánh Tôn qua những tâm sự này: "Ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét thế này. Nghĩ đến các tù nhân bị nhốt nơi lao ngục, bị trói buộc khổ sở mà chưa biết phải trái ra sao, ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân; gió rét, tất có kẻ chết không nơi nương tựa. Ta thật lấy làm thương… Ta yêu con ta thế nào thì ta thương dân cũng thế. Vì dân không hiểu luật lệ nên mắc tội, ta thực lấy làm thương xót. Vậy từ nay về sau, tội nặng hay nhẹ, các ngươi cũng khá xử cho khoan hồng." Và tình thương ấy chúng ta cũng lại được thấy trào dâng bàng bạc vào tận cả chốn u đồ của Cô Hồn Thập Loại mà Nguyễn Du đã động lòng cảm thông trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Đó là tình thương trải rộng, tình thương phổ đồng của tinh thần đại bi nhà Phật. 
Tinh thần ấy được Ngài Thật Hiền khai mở trong Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm như sau: "Ta với chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời làm cha mẹ nhau, có ơn với nhau. Nay do cách đời mờ ám, không biết được nhau, nhưng lấy lẽ mà suy cứu thì làm sao có thể không có sự báo bổ. Ngày nay là thú vật, nhưng biết đâu ngày trước ta đã từng là con cái của chúng. Hiện tại là vi sinh, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã từng là cha mẹ của ta. Thường thấy, nhỏ mà xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình bóng song thân, huống chi cha mẹ bà con đời trước, ngày nay kẻ họ Trương người họ Vương, khó mà nhớ được nhau. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngưỡng trong ngạ qủy, thống khổ ai biết, đói khát ai hay. Ta dầu không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu cầu vớt. Kinh mới dạy được việc ấy, Phật mới tỏ cảnh này, còn kẻ tà kiến thì làm sao biết được. Nên Bồ Tát nhìn sâu kiến cũng thấy toàn là cha mẹ quá khứ và Chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng." 

Hình ảnh Đức Bổntừ phụ của chúng ta sụp lạy đống xương khô trong Kinh Phụ Mẫu Báo Hiếu Ân thể hiện rõ nét cho tinh thần này. Nói đến Nguyễn Du, bậc văn chương chính nhân xưa nay đều hay cái duyên của người nghệ sĩ này với cái chất Phật giáo nó khắng khít thế nào.

Mở đầu cho bài văn tế 184 câu, Nguyễn Du như vừa thì thầm ngâm thơ vừa than thở trong lệ rơi cho nỗi niềm trăn trở đầy ê chề áo não.

"Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuộm bạc, lá khô rụng vàng."

Trước hết, nếu chỉ xét đơn thuần về khía cạnh tâm hồn người nghệ sĩ trước cảnh vừa đẹp vừa buồn của tiết thu thì Nguyễn Du cũng như Nguyễn Khuyến hay Lưu Trọng Lư không hơn không kém. Đối cảnh sanh tình là cái bệnh "đa cảm đa sầu" bình thường muôn thuở của người nghệ sĩ. Hình ảnh của tiết thu như: mưa dầm, hơi lạnh, sương khô, lá rụng vàng không gì lạ lẫm trong hồn thơ của những bậc thi nhân. Nhưng thoát ra ngoài phạm vi nghệ sĩ ấy, ta cảm nhận như Nguyễn Du không phải bị rơi vào chỗ đồng điệu với cái buồn man mác của chiều thu, mà hình như tự trong sâu lắng tâm hồn ông kết đọng một nỗi niềm u uất hay khắc khoải một hoài vọng xa xăm về một thế giới tâm linh u huyền nào đó. Cái chất thu ở Nguyễn Du có mang một chút sáng tối áo não hòa quyện sắc màu âm dương, dễ dàng khơi dậy một thứ cảm giác bâng khuâng về cái ân và cái nghĩa theo nhà Phật được thể hiện trong Lễ hội Vu Lan mà mỗi con người ai cũng hằng mang nặng. Như vậy, ở đây cái thu không chỉ là cảm xúc khi đối cảnh của tình nghệ sĩ, mà còn là cái thu mang nặng nghĩa ân tình thâm trọng của người con Phật.

"Tháng bảy mùa thu lá rụng vàng,
Ấy mùa báo hiếu lễ Vu Lan."

Đọc những vần thơ tiếp theo ta mới thấy rõ hơn về sự liên tưởng từ cái "hữu hình" đến cái "vô hình", từ cái "dương thể" đến cái "âm thể" trong một tâm hồn trăn trở Nguyễn Du:

"Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm."

Từ một trực cảnh hiện sinh, thiên tài Nguyễn Du mở ra những cánh cửa bí mật dẫn vào tâm hồn u uẩn của cô hồn thập loại và của chính tâm hồn mình. Ở đó ta thấy xuất hiện một nỗi niềm kỳ lạ khó hiểu trong con người của ông vào lúc cuối cuộc đời. Khi phải bệnh nặng, Nguyễn Du không chịu uống thuốc. Lúc gần chết, sai người sờ tay chân xem còn nóng hay đã lạnh. Người nhà bảo: Đã lạnh cả rồi. Nguyễn Du nói: "Được!" Nói xong thì im lặng mà từ giã cõi đời.
Theo thuyết Nghiệp Chủng Thức Phật giáo, mà rõ rànggiải thích của Thái Hư Đại Sưbài kệ:

"Đảnh Thánh, nhãn sanh Thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,

Bàng sanh tất cái ly,

Địa ngục cước tâm xuất."

Để đoán biết một người sau khi chết sẽ sanh về cảnh giới nào thì chỉ cần xem người ấy vào lúc lâm chung điểm hơi ấm cuối cùng xuất ra ở chỗ nào trên thân. Nếu ở đảnh đầu thì sẽ sanh về cõi Thánh, nếu ở trán thì sanh vào cõi trời, nếu ở tim thì sanh được làm người, nếu ở bụng thì sanh làm ngạ quỷ, ở đầu gối thì sanh vào loài súc sanh, còn ở bàn chân thì phải đọa vào địa ngục.

Nguyễn Du đã dùng phương pháp này để đoán xem mình sẽ sanh vào thế giới nào. Người nhà bảo lạnh cả rồi mà ông vẫn còn trong trạng thái hoàn toàn tỉnh, rồi bảo rằng: "Được!" Từ "Được" ấy chính là cái điểm nóng cuối cùng diễn biến đúng như ý của Nguyễn Du. Cũng chính trong cái im lặng ra đi của ông toát lên một sức mạnh gì đó mang tính được dự định cho điều bí mật hiện hữu trong một tâm hồn. Đó phải chăng là một sự tỉnh thức mà từ lâu Nguyễn Du đã tu tập được để chuẩn bị cho một phẩm vị ở cảnh liên trì tự tại.

Sống, Nguyễn Du cứ bị thôi thúc bởi hai chữ "Sinh hóa". Chính vì vậy mà mở đầu bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, ta toàn trực diện với những từ ngữ chứa chan sắc màu lắng đọng của âm dương chập chờn hòa quyện.

"Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,

Thương thay thập loại chúng sanh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người."

Đạo Phật luôn lấy sứ mạng đem ánh sáng và tình thương đến cho muôn loài làm lý tưởng sống. Ánh sáng của tinh tú, của mặt nhật, mặt nguyệt chỉ có thể giúp chúng sanh thoát khỏi sự hỗn mang phiền tạp cũng như sự mò mẫm, và đen đặc của trời đất hay của cuộc đời. Ánh sáng chánh pháp, của tình thương chính là hai sự trạng chan chứa trong tinh thần của Phật giáo. Chính cái tình thương phổ đồng mới đưa tất cả chúng sanh cùng hòa vào một khối yêu, và ngay ở chính đó mỗi cá thể sẽ tìm thấy được cái tình thân ấm áp lạ lùng. Đây quả là lời tỉnh giác, là lời mở đầu bài thuyết linh cho chúng cô hồn "phách chiếc lênh đênh" không nơi nương tựa của một Pháp sư chứ không phải của một Nguyễn Du mà mọi người chỉ biết dưới danh nghĩa một đại thi hào.

"Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tỉnh đàn rưới hạt dương chi

Muôn nhờ Đức Phật từ bi,

Giải oan cứu khổ hồn về Tây Phương."

Đến đây chúng ta càng thấy rõ hơn Nguyễn Du đã thật sự thoát xác hóa thân thành một pháp sư, thành một đạo sĩ tay cầm nhành dương rưới nước phép, mở khai phương tiện quyền xảo đi vào tận cùng thế giới không tên của trăm nghìn kiếp sống mà hiển thật hóa duyên. Một danh nhân không chỉ của riêng dân tộc Việt Nam hay của Phật giáo Việt Nam, mà còn được cả thế giới công nhận và xếp vào hạng những nhà văn hóa nổi bật của mọi thời đại lại còn xiển dương việc "lập đàn giải thoát" như thế ấy. Đó chính là phẩm chất của nhà văn hóa Nguyễn Du và cũng là phẩm hạnh cao đẹp của một vị Bồ Tát. Có ai nào dám mạo danh vì một chủ nghĩa, một học thuyết lý luận nào đó mà phê phán hay chỉ trích ấy là việc làm mê tín dị đoan phải bài trừ? Chỉ những ai thiếu kiến thức văn hóa mới hời hợt đánh giá đó là phi văn hóa. Và chỉ có những ai lạm dụng cái giá trị văn hóa đó để phục vụ cho mục đích riêng mình mới là người thiếu văn hóa.

Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Trời đất nào dung tha kẻ ác,
Cớ sao còn có lễ Vu Lan,

Từ bi, ta muốn nhờ công sức,

Cứu được bao người chịu khổ oan?"

Đó là cách nói răn dè để dạy đời theo quan điểm đạo đức về thiện ác, thưởng phạt do trời đất định đoạt mang tính khắt khe của người Nho gia. Theo truyền thống báo hiếu, đáp nghĩa, đền ân thuộc đạo lý làm người của Phật giáo thì chẳng những khi còn sống chúng ta phải biết quan tâm và tử tế với nhau, mà ngay cả sau khi chết chúng ta cũng phải biết thương tưởng hướng về nhau. Vì thế, Vu Lan phải được xem như là một nghĩa cử cao đẹp không chỉ cứu tử mà còn có giá trị độ sanh nữa. Với lại, về mặt pháp luật, không luật lệ nào không có ngoại trừ, cũng không có tòa án xử tội nào lại không có điều khoản ân xá.

Theo Phật giáo, trong thế giới tương đối này, hết thảy vạn hữu đều phải chịu ảnh hưởng của quy luật Nhân Quả. Tất cả đều tương quan tác động qua lại với nhau, duyên vào nhau mà tồn tại. Do đó, nghi lễ cầu an và cầu siêu là những trợ duyên cần thiết, những đìều kiện hỗ trợ một cách hợp lý cho sự sống và sự chết của con người về mặt tinh thần. Đứng về phương diện đạo lý thường tình mà xét thì "lễ" là sự thể hiện cho cái "nghĩa" sống của con người, song để thể hiện cái "lễ" ấy thì cần phải dựa vào "nghi thức" để thực hiện cho phải lẽ kính tôn.

Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh đang điêu linh nơi âm cảnh ở một đại thi hào. Lòng xót thương đã khiến người nhận ra được tính đồng thể mà chỉ có các Bồ Tát, các bậc giác ngộ trong loài hữu tình mới nhận thấy được để từ đấy phát nguyện độ tận chúng sanh. Một tình thương bao la như thể biết dùng những phương tiện cứu độhóa duyên, mà ở đây là "đàn khai cam lồ môn" được Nguyễn Du thiết lập theo nghi Vu Lan Bồn để giải oan bạt độ cho chúng cô hồn lạc lõng bơ vơ.

Ngày rằm tháng bảy, tất cả các cửa ngục đều mở, mọi hình phạt đều tạm ngưng, các tội nhơn trong chốn u đồ đều có cơ hội được xá tội. Đêm hôm ấy, kiến lập Vu Lan để cúng tế chúng sanh nơi âm giớibáo đáp cù lao. Ở hội này có thiết lập một đàn "khai cam lồ môn" để giải oan bạt độ cho chúng sanh chịu khổ chốn u đồ được giải thoát siêu thăng. Như vậy, "đàn giải thoát" mà Nguyễn Du nói đến chính là đàn này vậy.

Theo các khoa nghi chẩn tế thì cô hồn tùy theo nghiệp chủng mà biến hiện ra nhiều hình thù khác nhau để chịu khổ báo. Có những loại cô hồn bụng to như cái trống mà cổ lại nhỏ bằng ống kim, không thể nào ăn uống được. Có những loại cô hồn vì tánh xan tham nên để giành lấy thức ăn họ lại cấu xé nhau đến chết mà vẫn chịu cái khổ đói khát. Có những loại cô hồn nhìn thức ăn thấy toàn máu mủ và than hồng không sao ăn uống được. Ngoài ra còn nhiều nỗi thống khổ không sao tả xiết được mà chúng sanh phải chịu ở chốn u đồ.

"Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa;

Cho hay thành bại là cơ,

cô hồn biết bao giờ cho tan."

Hơn ai hết, Nguyễn Du làm lắng đọng lòng người để nghe những âm thanh vang động tiếng thiết tha đầy thê thảm của chúng sanh khi viết nên tiếng ai oán Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Ở đó, ông cũng phác họa nên những hình ảnh âm linh kinh hoàng chịu những nỗi rét mướt lạc loài của những oan hồn cô mộ.

Với thuyết nghiệp báo của Phật giáo, tất cả chúng sanh đều có nghiệp quả, chúng đều hưởng thọ nghiệp quả, chúng lệ thuộc vào nghiệp quả. Chính nghiệp quả mà phân biệt chúng sanh thành các chủng loại: thấp-cao, sang-hèn, quý-tiện, hạnh phúc-khổ đau. Hay nói theo Lê Thánh Tôn trong Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn:
"Hồn là thần, phách là quỷ, 
No nên Bụt, đói nên ma."

Như vậy, qua sự hiện hành của nghiệp quả mà người ta đánh giá được nghiệp nhân của chúng sanh. Nghiệp quả càng vô cùng đa dạng thì hình thức hiện sinh của chúng sanh càng đa dạng không cùng.
"Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu, phách lạc biết đâu bây giờ?"

Và cái đa dạng phảng phất ấy trong khoa Mông Sơn Chẩn Thí Cô Hồn có trình bày: "Hà sa thập loại khôn cùng,… không chùa không miếu lấy ai nương nhờ. Từ đường đâu có phụng thờ. Cô đơn, độc lập nương nhờ gốc cây, lênh đênh mặt nước cung mây, đầu đường xó chợ hồn bay lạc loài". Hễ cõi dương có bao nhiêu cảnh phiêu bồng lạc lõng thì cõi âm có bấy nhiêu cảnh lang bạt tiêu điều. Trở lại lời thỉnh mời, và cũng là lời mà Nguyễn Du thức tỉnh cho những tâm hồn mang nặng oán thù sân ngoa.

"Cô hồn thất thểu dọc ngang, 
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sanh."

Theo quan điểm Phật giáo thì thiên đường hay địa ngục đều do ở mỗi con người mà ra.

"Nghiệp duyên vốn tự mình ra,
Nơi vuông tấc đủ thiên đường, địa ngục."

(Vịnh Phật - Nguyễn Công Trứ)

Vậy muốn thoát những cái khổ dằn vặt trong chốn tam đồ thì ở mỗi chúng sanh phải tự mình thức giác diệt trừ mê lầm oán thân, nhờ đó sẽ đạt tới đỉnh cao giác ngộgiải thoát - hạnh phúctự do. Đó không chỉ đơn thuần là lời thức giác cho những cô hồn nặng oan khiên mà còn là lời phản tỉnh cho những con người đang hiện sinh lầm lạc trong cả cuộc đời này.

"Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn vật giai không;

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi."

Ở đây, Nguyễn Du đã diễn tả rất chính xác thực trạng vô thường theo quan điểm nhà Phật, đó là một thực tại khách quan, một chân lý phổ biến khắp không gianthời gian. Nó không dựa trên ý thức cảm tính hay khái niệm chủ quan, lại hoàn toàn không phải hư cấu giả tưởng hay thêu dệt để lung lạc lòng người. Hết thảy vạn vật kể cả thập loại chúng sanh đều có những điều kiện, những nhân duyên tạo thành, không có cái biệt lập riêng rẽ. Đó là nguyên lý tất yếu, là nhận thức giác ngộ. Nếu giác ngộ đúng sự thật thì lòng ta sẽ vơi, sẽ không còn day dứt, khổ đau; vượt trên những vui buồn thường tình; tháo gỡ những oán thù, những tham lam ích kỷ. Đây là lời thuyết linh, lời phản tỉnh dẫn dắt hết sức tài tình của pháp sư Nguyễn Du. Đồng thời đó cũng là lời thiết tha kêu gọi mọi người hãy mau mau giác ngộ sự thật cuộc đời. Một khi lòng ta đã giác ngộ thức tỉnh thì Phật tại tâm, Phật ở tại lòng ta, vì Phật chính là giác ngộ vậy.
Kết thúc bài văn tế Nguyễn Du viết:

"Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không;

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,

Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài."

Khi Đức Phật quyết định dấn thân vào đời, Ngài phát bốn thệ nguyện rộng lớn để làm lý tưởng sống giữa cuộc đời: "Thệ nguyện độ tất cả chúng sanh, thệ nguyện từ bỏ tất cả phiền não, thệ nguyện học hết thảy giáo lý cao siêu, thệ nguyện thành tựu đạo giác ngộ vô thượng." Bốn lời thệ nguyện này là hành trang của lòng yêu thươngtừ bi vô tận, là tiêu điểm hướng đến thành tựu Phật quả. Bốn câu kết của Nguyễn Du ở bài văn tế bao hàm đủ ý nghĩa của "Tứ hoằng thệ nguyện" này. Ta thấy tình yêu thương của ông trang trải khắp tận cùng thế giới chúng sanh. Chính cái tình yêu thương vô tận ấy là nguồn xúc tác khơi dậy những vần thơ trác tuyệt làm rạng rỡ hình ảnh của một đại thi hào. Đứng về mặt đạo đức thế gian, ông quả là một người có đầy đủ hiếu tâm, hiếu đạo, trọn nghĩa, trọn tình. Đứng về mặt giác ngộ, ông có đầy đủ phẩm hạnh của một Phật tử sống biết thể hiện tinh thần tự độ, độ tha.

Tóm lại, đứng trên địa hạt lợi tha, đạo Phật luôn khích lệ tất cả mọi người phải ghi nhớ, tích cực tìm cách báo âncứu khổ. Xét rộng thì tất cả chúng sanh đều là ân nhân của nhau. Và cái khổ mà cần cứu cần vớt đó là cái khổ thống thiết của chúng sanh trong chốn u đồ.

Nhân mùa Vu Lan đến với người con Phật, tất cả chúng ta hãy cùng với Nguyễn Du đồng chấp tay hướng về Tam Bảo, đồng thể hiện tình thương tưỏng đạo giáo vô biên của người con Phật đến tận khắp pháp giới chúng sanh còn đang đau khổ đọa đày trong cảnh u đồ, và hiện tại thế gian đang sống cơ hàn vì thọ nghiệp đáng thương, các chơn linh anh hùng liệt sĩ vì nước vong thân, đồng bào tử nạn. Hãy cùng nhau thành kính nguyện cầu cho tất cả đều được siêu sanh thoát hóa. Ấy là ý nghĩa báo ân mang tính vừa cao cả, vừa bao la hòa đồng và cảm thông cùng khắp của Nguyễn Du, của người Phật tử trong tinh thần Phật giáo chánh nhân. Cuối cùng, xin hãy đồng niệm câu kinh của Phật tử Nguyễn Du để nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh đều được lợi lạc, an lànhhạnh phúc trong ngày lễ Vu Lan này.

"Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài".

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15581)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14054)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55113)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14445)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14205)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36322)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19157)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20290)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17640)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14684)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46176)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35939)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20193)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18370)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19844)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19531)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33417)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54522)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37728)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63655)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27444)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23035)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17923)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20938)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14474)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17479)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21984)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14368)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15401)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14995)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12699)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13351)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12516)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16241)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13202)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21652)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22731)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46191)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14739)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13841)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47502)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13658)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14577)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12531)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40394)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant