Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10939)
Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

LỄ VU LAN NGUYỄN DU LẬP ĐÀN
BẠT ĐỘ CÔ HỒN THẬP LOẠI
Thích Tâm Tôn 

Ai đã từng sống long đong trong bể khổ không cùng cũng như trong hoan lạc chơi vơi, hay từng trải qua những ngày dài quạnh quẽ và những đêm tàn hoang vu, ắt hẳn không sao tránh khỏi trỗi dậy nỗi động lòng dào dạt khiến lệ trào dâng mi khi đọc Văn Tế Thập Loại Cô Hồn đầy ai oán cảm sầu của cụ Nguyễn Du. Một Nguyễn Du thiên tài, song lại là một mảnh đời lận đận và có phần bạc mệnh như chính cuộc đời Kiều. Phải chăng, đó là nghiệp báo lao xao của một kiếp chúng sanh mà ông đã nhìn nhận trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh:

"Mỗi người một nghiệp khác nhau, 
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?"

Nghe ra thấy toàn là chất nhân sinhtâm linh Phật giáo. Và chất Phật giáo ấy có gì lạ, bởi chính ông là một Phật tử trí thức thấm nhuần giáo lý Phật Đà. Hình như cái tư tưởng Phật giáo đã vô hình ứng hiện vào tận nguồn cảm hứng sáng tác cho một nghệ sĩ Nguyễn Du, để tạo nên những áng thi chương lẫy lừng bất hủ. Điều đó đã được thể hiện trọn vẹn trong hai tác phẩm bất tuyệt của ông: Truyện Kiều và Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Cả hai tác phẩm này có thể được xem như là những bản kinh của Phật giáo Việt Nam, mang tính cầu an như truyện Kiều và cầu siêu như Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Nhân Lễ hội Vu Lan xin được lạm bàn về vài áng văn tế của Nguyễn Du, như thể để nhắc lại cái giá trị văn hóa tâm linh Phật giáo tuyệt với mà ông đã thể hiện một cách trọn vẹn về nghĩa cử báo hiếu tình thân và thi ân tế độ phổ đồng. Đó chính là hai mục tiêu trong một ý nghĩa "Giải Đảo Huyền" mà người Phật tử Việt Nam nào vào dịp tiết Trung Nguyên - Lễ hội truyền thống Vu Lan cũng vọng hoài thổn thức.

Đức Phật từng dạy: "Nếu đem nước mắt của hết thảy chúng sanh trong vòng luân hồi từ vô thỉ đến nay tích chứa lại thì nhiều cũng như nước của cả một đại dương". Đức Phậthiện sinh của tinh thần đượm nhuần đức tánh nhân áitừ bi vô lượng. Bằng vào mọi phương tiện, tinh thần nhân ái cao cả đó được Ngài thể hiện một cách tài tình hằng che chở cho tất cả chúng sanh. Tánh đức từ bi vô ngần ấy chính là tinh thần cảm thông với những nỗi thống khổ bất tận mà những chúng sanh tội lỗi và bệnh tật hằng mang. Đức Phật tỏ bày: "Nỗi thống khổ của người cũng chính là nỗi thống khổ của ta, và niềm hạnh phúc của người cũng chính là niềm hạnh phúc của ta." Tình thương cao cả ấy quả là cái đức bạt ngàn của người cha và cái lòng bao la của người mẹ dành cho con thơ tội nghiệp.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam mang theo những tinh ba tươi đẹp nhất để làm tươi mát cho những tâm hồn khốn khổ, đồng thời cũng xúc tác những nguồn tư tưởng phong phú làm trào dâng cho bao trái tim nhân sĩ trí thức Việt Nam. Chỉ có tình thương của đạo Phật mới sản sinh ra những con người giàu đức hiếu sinh, hiếu hòa và giải thoát như Lý Thánh Tôn qua những tâm sự này: "Ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét thế này. Nghĩ đến các tù nhân bị nhốt nơi lao ngục, bị trói buộc khổ sở mà chưa biết phải trái ra sao, ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân; gió rét, tất có kẻ chết không nơi nương tựa. Ta thật lấy làm thương… Ta yêu con ta thế nào thì ta thương dân cũng thế. Vì dân không hiểu luật lệ nên mắc tội, ta thực lấy làm thương xót. Vậy từ nay về sau, tội nặng hay nhẹ, các ngươi cũng khá xử cho khoan hồng." Và tình thương ấy chúng ta cũng lại được thấy trào dâng bàng bạc vào tận cả chốn u đồ của Cô Hồn Thập Loại mà Nguyễn Du đã động lòng cảm thông trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Đó là tình thương trải rộng, tình thương phổ đồng của tinh thần đại bi nhà Phật. 
Tinh thần ấy được Ngài Thật Hiền khai mở trong Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm như sau: "Ta với chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời làm cha mẹ nhau, có ơn với nhau. Nay do cách đời mờ ám, không biết được nhau, nhưng lấy lẽ mà suy cứu thì làm sao có thể không có sự báo bổ. Ngày nay là thú vật, nhưng biết đâu ngày trước ta đã từng là con cái của chúng. Hiện tại là vi sinh, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã từng là cha mẹ của ta. Thường thấy, nhỏ mà xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình bóng song thân, huống chi cha mẹ bà con đời trước, ngày nay kẻ họ Trương người họ Vương, khó mà nhớ được nhau. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngưỡng trong ngạ qủy, thống khổ ai biết, đói khát ai hay. Ta dầu không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu cầu vớt. Kinh mới dạy được việc ấy, Phật mới tỏ cảnh này, còn kẻ tà kiến thì làm sao biết được. Nên Bồ Tát nhìn sâu kiến cũng thấy toàn là cha mẹ quá khứ và Chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng." 

Hình ảnh Đức Bổntừ phụ của chúng ta sụp lạy đống xương khô trong Kinh Phụ Mẫu Báo Hiếu Ân thể hiện rõ nét cho tinh thần này. Nói đến Nguyễn Du, bậc văn chương chính nhân xưa nay đều hay cái duyên của người nghệ sĩ này với cái chất Phật giáo nó khắng khít thế nào.

Mở đầu cho bài văn tế 184 câu, Nguyễn Du như vừa thì thầm ngâm thơ vừa than thở trong lệ rơi cho nỗi niềm trăn trở đầy ê chề áo não.

"Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuộm bạc, lá khô rụng vàng."

Trước hết, nếu chỉ xét đơn thuần về khía cạnh tâm hồn người nghệ sĩ trước cảnh vừa đẹp vừa buồn của tiết thu thì Nguyễn Du cũng như Nguyễn Khuyến hay Lưu Trọng Lư không hơn không kém. Đối cảnh sanh tình là cái bệnh "đa cảm đa sầu" bình thường muôn thuở của người nghệ sĩ. Hình ảnh của tiết thu như: mưa dầm, hơi lạnh, sương khô, lá rụng vàng không gì lạ lẫm trong hồn thơ của những bậc thi nhân. Nhưng thoát ra ngoài phạm vi nghệ sĩ ấy, ta cảm nhận như Nguyễn Du không phải bị rơi vào chỗ đồng điệu với cái buồn man mác của chiều thu, mà hình như tự trong sâu lắng tâm hồn ông kết đọng một nỗi niềm u uất hay khắc khoải một hoài vọng xa xăm về một thế giới tâm linh u huyền nào đó. Cái chất thu ở Nguyễn Du có mang một chút sáng tối áo não hòa quyện sắc màu âm dương, dễ dàng khơi dậy một thứ cảm giác bâng khuâng về cái ân và cái nghĩa theo nhà Phật được thể hiện trong Lễ hội Vu Lan mà mỗi con người ai cũng hằng mang nặng. Như vậy, ở đây cái thu không chỉ là cảm xúc khi đối cảnh của tình nghệ sĩ, mà còn là cái thu mang nặng nghĩa ân tình thâm trọng của người con Phật.

"Tháng bảy mùa thu lá rụng vàng,
Ấy mùa báo hiếu lễ Vu Lan."

Đọc những vần thơ tiếp theo ta mới thấy rõ hơn về sự liên tưởng từ cái "hữu hình" đến cái "vô hình", từ cái "dương thể" đến cái "âm thể" trong một tâm hồn trăn trở Nguyễn Du:

"Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm."

Từ một trực cảnh hiện sinh, thiên tài Nguyễn Du mở ra những cánh cửa bí mật dẫn vào tâm hồn u uẩn của cô hồn thập loại và của chính tâm hồn mình. Ở đó ta thấy xuất hiện một nỗi niềm kỳ lạ khó hiểu trong con người của ông vào lúc cuối cuộc đời. Khi phải bệnh nặng, Nguyễn Du không chịu uống thuốc. Lúc gần chết, sai người sờ tay chân xem còn nóng hay đã lạnh. Người nhà bảo: Đã lạnh cả rồi. Nguyễn Du nói: "Được!" Nói xong thì im lặng mà từ giã cõi đời.
Theo thuyết Nghiệp Chủng Thức Phật giáo, mà rõ rànggiải thích của Thái Hư Đại Sưbài kệ:

"Đảnh Thánh, nhãn sanh Thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,

Bàng sanh tất cái ly,

Địa ngục cước tâm xuất."

Để đoán biết một người sau khi chết sẽ sanh về cảnh giới nào thì chỉ cần xem người ấy vào lúc lâm chung điểm hơi ấm cuối cùng xuất ra ở chỗ nào trên thân. Nếu ở đảnh đầu thì sẽ sanh về cõi Thánh, nếu ở trán thì sanh vào cõi trời, nếu ở tim thì sanh được làm người, nếu ở bụng thì sanh làm ngạ quỷ, ở đầu gối thì sanh vào loài súc sanh, còn ở bàn chân thì phải đọa vào địa ngục.

Nguyễn Du đã dùng phương pháp này để đoán xem mình sẽ sanh vào thế giới nào. Người nhà bảo lạnh cả rồi mà ông vẫn còn trong trạng thái hoàn toàn tỉnh, rồi bảo rằng: "Được!" Từ "Được" ấy chính là cái điểm nóng cuối cùng diễn biến đúng như ý của Nguyễn Du. Cũng chính trong cái im lặng ra đi của ông toát lên một sức mạnh gì đó mang tính được dự định cho điều bí mật hiện hữu trong một tâm hồn. Đó phải chăng là một sự tỉnh thức mà từ lâu Nguyễn Du đã tu tập được để chuẩn bị cho một phẩm vị ở cảnh liên trì tự tại.

Sống, Nguyễn Du cứ bị thôi thúc bởi hai chữ "Sinh hóa". Chính vì vậy mà mở đầu bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, ta toàn trực diện với những từ ngữ chứa chan sắc màu lắng đọng của âm dương chập chờn hòa quyện.

"Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,

Thương thay thập loại chúng sanh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người."

Đạo Phật luôn lấy sứ mạng đem ánh sáng và tình thương đến cho muôn loài làm lý tưởng sống. Ánh sáng của tinh tú, của mặt nhật, mặt nguyệt chỉ có thể giúp chúng sanh thoát khỏi sự hỗn mang phiền tạp cũng như sự mò mẫm, và đen đặc của trời đất hay của cuộc đời. Ánh sáng chánh pháp, của tình thương chính là hai sự trạng chan chứa trong tinh thần của Phật giáo. Chính cái tình thương phổ đồng mới đưa tất cả chúng sanh cùng hòa vào một khối yêu, và ngay ở chính đó mỗi cá thể sẽ tìm thấy được cái tình thân ấm áp lạ lùng. Đây quả là lời tỉnh giác, là lời mở đầu bài thuyết linh cho chúng cô hồn "phách chiếc lênh đênh" không nơi nương tựa của một Pháp sư chứ không phải của một Nguyễn Du mà mọi người chỉ biết dưới danh nghĩa một đại thi hào.

"Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tỉnh đàn rưới hạt dương chi

Muôn nhờ Đức Phật từ bi,

Giải oan cứu khổ hồn về Tây Phương."

Đến đây chúng ta càng thấy rõ hơn Nguyễn Du đã thật sự thoát xác hóa thân thành một pháp sư, thành một đạo sĩ tay cầm nhành dương rưới nước phép, mở khai phương tiện quyền xảo đi vào tận cùng thế giới không tên của trăm nghìn kiếp sống mà hiển thật hóa duyên. Một danh nhân không chỉ của riêng dân tộc Việt Nam hay của Phật giáo Việt Nam, mà còn được cả thế giới công nhận và xếp vào hạng những nhà văn hóa nổi bật của mọi thời đại lại còn xiển dương việc "lập đàn giải thoát" như thế ấy. Đó chính là phẩm chất của nhà văn hóa Nguyễn Du và cũng là phẩm hạnh cao đẹp của một vị Bồ Tát. Có ai nào dám mạo danh vì một chủ nghĩa, một học thuyết lý luận nào đó mà phê phán hay chỉ trích ấy là việc làm mê tín dị đoan phải bài trừ? Chỉ những ai thiếu kiến thức văn hóa mới hời hợt đánh giá đó là phi văn hóa. Và chỉ có những ai lạm dụng cái giá trị văn hóa đó để phục vụ cho mục đích riêng mình mới là người thiếu văn hóa.

Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Trời đất nào dung tha kẻ ác,
Cớ sao còn có lễ Vu Lan,

Từ bi, ta muốn nhờ công sức,

Cứu được bao người chịu khổ oan?"

Đó là cách nói răn dè để dạy đời theo quan điểm đạo đức về thiện ác, thưởng phạt do trời đất định đoạt mang tính khắt khe của người Nho gia. Theo truyền thống báo hiếu, đáp nghĩa, đền ân thuộc đạo lý làm người của Phật giáo thì chẳng những khi còn sống chúng ta phải biết quan tâm và tử tế với nhau, mà ngay cả sau khi chết chúng ta cũng phải biết thương tưởng hướng về nhau. Vì thế, Vu Lan phải được xem như là một nghĩa cử cao đẹp không chỉ cứu tử mà còn có giá trị độ sanh nữa. Với lại, về mặt pháp luật, không luật lệ nào không có ngoại trừ, cũng không có tòa án xử tội nào lại không có điều khoản ân xá.

Theo Phật giáo, trong thế giới tương đối này, hết thảy vạn hữu đều phải chịu ảnh hưởng của quy luật Nhân Quả. Tất cả đều tương quan tác động qua lại với nhau, duyên vào nhau mà tồn tại. Do đó, nghi lễ cầu an và cầu siêu là những trợ duyên cần thiết, những đìều kiện hỗ trợ một cách hợp lý cho sự sống và sự chết của con người về mặt tinh thần. Đứng về phương diện đạo lý thường tình mà xét thì "lễ" là sự thể hiện cho cái "nghĩa" sống của con người, song để thể hiện cái "lễ" ấy thì cần phải dựa vào "nghi thức" để thực hiện cho phải lẽ kính tôn.

Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh đang điêu linh nơi âm cảnh ở một đại thi hào. Lòng xót thương đã khiến người nhận ra được tính đồng thể mà chỉ có các Bồ Tát, các bậc giác ngộ trong loài hữu tình mới nhận thấy được để từ đấy phát nguyện độ tận chúng sanh. Một tình thương bao la như thể biết dùng những phương tiện cứu độhóa duyên, mà ở đây là "đàn khai cam lồ môn" được Nguyễn Du thiết lập theo nghi Vu Lan Bồn để giải oan bạt độ cho chúng cô hồn lạc lõng bơ vơ.

Ngày rằm tháng bảy, tất cả các cửa ngục đều mở, mọi hình phạt đều tạm ngưng, các tội nhơn trong chốn u đồ đều có cơ hội được xá tội. Đêm hôm ấy, kiến lập Vu Lan để cúng tế chúng sanh nơi âm giớibáo đáp cù lao. Ở hội này có thiết lập một đàn "khai cam lồ môn" để giải oan bạt độ cho chúng sanh chịu khổ chốn u đồ được giải thoát siêu thăng. Như vậy, "đàn giải thoát" mà Nguyễn Du nói đến chính là đàn này vậy.

Theo các khoa nghi chẩn tế thì cô hồn tùy theo nghiệp chủng mà biến hiện ra nhiều hình thù khác nhau để chịu khổ báo. Có những loại cô hồn bụng to như cái trống mà cổ lại nhỏ bằng ống kim, không thể nào ăn uống được. Có những loại cô hồn vì tánh xan tham nên để giành lấy thức ăn họ lại cấu xé nhau đến chết mà vẫn chịu cái khổ đói khát. Có những loại cô hồn nhìn thức ăn thấy toàn máu mủ và than hồng không sao ăn uống được. Ngoài ra còn nhiều nỗi thống khổ không sao tả xiết được mà chúng sanh phải chịu ở chốn u đồ.

"Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa;

Cho hay thành bại là cơ,

cô hồn biết bao giờ cho tan."

Hơn ai hết, Nguyễn Du làm lắng đọng lòng người để nghe những âm thanh vang động tiếng thiết tha đầy thê thảm của chúng sanh khi viết nên tiếng ai oán Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Ở đó, ông cũng phác họa nên những hình ảnh âm linh kinh hoàng chịu những nỗi rét mướt lạc loài của những oan hồn cô mộ.

Với thuyết nghiệp báo của Phật giáo, tất cả chúng sanh đều có nghiệp quả, chúng đều hưởng thọ nghiệp quả, chúng lệ thuộc vào nghiệp quả. Chính nghiệp quả mà phân biệt chúng sanh thành các chủng loại: thấp-cao, sang-hèn, quý-tiện, hạnh phúc-khổ đau. Hay nói theo Lê Thánh Tôn trong Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn:
"Hồn là thần, phách là quỷ, 
No nên Bụt, đói nên ma."

Như vậy, qua sự hiện hành của nghiệp quả mà người ta đánh giá được nghiệp nhân của chúng sanh. Nghiệp quả càng vô cùng đa dạng thì hình thức hiện sinh của chúng sanh càng đa dạng không cùng.
"Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu, phách lạc biết đâu bây giờ?"

Và cái đa dạng phảng phất ấy trong khoa Mông Sơn Chẩn Thí Cô Hồn có trình bày: "Hà sa thập loại khôn cùng,… không chùa không miếu lấy ai nương nhờ. Từ đường đâu có phụng thờ. Cô đơn, độc lập nương nhờ gốc cây, lênh đênh mặt nước cung mây, đầu đường xó chợ hồn bay lạc loài". Hễ cõi dương có bao nhiêu cảnh phiêu bồng lạc lõng thì cõi âm có bấy nhiêu cảnh lang bạt tiêu điều. Trở lại lời thỉnh mời, và cũng là lời mà Nguyễn Du thức tỉnh cho những tâm hồn mang nặng oán thù sân ngoa.

"Cô hồn thất thểu dọc ngang, 
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sanh."

Theo quan điểm Phật giáo thì thiên đường hay địa ngục đều do ở mỗi con người mà ra.

"Nghiệp duyên vốn tự mình ra,
Nơi vuông tấc đủ thiên đường, địa ngục."

(Vịnh Phật - Nguyễn Công Trứ)

Vậy muốn thoát những cái khổ dằn vặt trong chốn tam đồ thì ở mỗi chúng sanh phải tự mình thức giác diệt trừ mê lầm oán thân, nhờ đó sẽ đạt tới đỉnh cao giác ngộgiải thoát - hạnh phúctự do. Đó không chỉ đơn thuần là lời thức giác cho những cô hồn nặng oan khiên mà còn là lời phản tỉnh cho những con người đang hiện sinh lầm lạc trong cả cuộc đời này.

"Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn vật giai không;

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi."

Ở đây, Nguyễn Du đã diễn tả rất chính xác thực trạng vô thường theo quan điểm nhà Phật, đó là một thực tại khách quan, một chân lý phổ biến khắp không gianthời gian. Nó không dựa trên ý thức cảm tính hay khái niệm chủ quan, lại hoàn toàn không phải hư cấu giả tưởng hay thêu dệt để lung lạc lòng người. Hết thảy vạn vật kể cả thập loại chúng sanh đều có những điều kiện, những nhân duyên tạo thành, không có cái biệt lập riêng rẽ. Đó là nguyên lý tất yếu, là nhận thức giác ngộ. Nếu giác ngộ đúng sự thật thì lòng ta sẽ vơi, sẽ không còn day dứt, khổ đau; vượt trên những vui buồn thường tình; tháo gỡ những oán thù, những tham lam ích kỷ. Đây là lời thuyết linh, lời phản tỉnh dẫn dắt hết sức tài tình của pháp sư Nguyễn Du. Đồng thời đó cũng là lời thiết tha kêu gọi mọi người hãy mau mau giác ngộ sự thật cuộc đời. Một khi lòng ta đã giác ngộ thức tỉnh thì Phật tại tâm, Phật ở tại lòng ta, vì Phật chính là giác ngộ vậy.
Kết thúc bài văn tế Nguyễn Du viết:

"Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không;

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,

Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài."

Khi Đức Phật quyết định dấn thân vào đời, Ngài phát bốn thệ nguyện rộng lớn để làm lý tưởng sống giữa cuộc đời: "Thệ nguyện độ tất cả chúng sanh, thệ nguyện từ bỏ tất cả phiền não, thệ nguyện học hết thảy giáo lý cao siêu, thệ nguyện thành tựu đạo giác ngộ vô thượng." Bốn lời thệ nguyện này là hành trang của lòng yêu thươngtừ bi vô tận, là tiêu điểm hướng đến thành tựu Phật quả. Bốn câu kết của Nguyễn Du ở bài văn tế bao hàm đủ ý nghĩa của "Tứ hoằng thệ nguyện" này. Ta thấy tình yêu thương của ông trang trải khắp tận cùng thế giới chúng sanh. Chính cái tình yêu thương vô tận ấy là nguồn xúc tác khơi dậy những vần thơ trác tuyệt làm rạng rỡ hình ảnh của một đại thi hào. Đứng về mặt đạo đức thế gian, ông quả là một người có đầy đủ hiếu tâm, hiếu đạo, trọn nghĩa, trọn tình. Đứng về mặt giác ngộ, ông có đầy đủ phẩm hạnh của một Phật tử sống biết thể hiện tinh thần tự độ, độ tha.

Tóm lại, đứng trên địa hạt lợi tha, đạo Phật luôn khích lệ tất cả mọi người phải ghi nhớ, tích cực tìm cách báo âncứu khổ. Xét rộng thì tất cả chúng sanh đều là ân nhân của nhau. Và cái khổ mà cần cứu cần vớt đó là cái khổ thống thiết của chúng sanh trong chốn u đồ.

Nhân mùa Vu Lan đến với người con Phật, tất cả chúng ta hãy cùng với Nguyễn Du đồng chấp tay hướng về Tam Bảo, đồng thể hiện tình thương tưỏng đạo giáo vô biên của người con Phật đến tận khắp pháp giới chúng sanh còn đang đau khổ đọa đày trong cảnh u đồ, và hiện tại thế gian đang sống cơ hàn vì thọ nghiệp đáng thương, các chơn linh anh hùng liệt sĩ vì nước vong thân, đồng bào tử nạn. Hãy cùng nhau thành kính nguyện cầu cho tất cả đều được siêu sanh thoát hóa. Ấy là ý nghĩa báo ân mang tính vừa cao cả, vừa bao la hòa đồng và cảm thông cùng khắp của Nguyễn Du, của người Phật tử trong tinh thần Phật giáo chánh nhân. Cuối cùng, xin hãy đồng niệm câu kinh của Phật tử Nguyễn Du để nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh đều được lợi lạc, an lànhhạnh phúc trong ngày lễ Vu Lan này.

"Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài".

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10420)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9694)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23640)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11856)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10087)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21633)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29434)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11402)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12379)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26344)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31048)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25354)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22826)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13064)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21977)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12235)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14155)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11260)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10700)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38085)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13679)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13475)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12357)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12593)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12064)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11220)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23375)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12809)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7398)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12194)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12627)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12056)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12874)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11952)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10708)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11380)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11679)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10888)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10811)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10382)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10717)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10638)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11919)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10704)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12743)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10811)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11402)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11099)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11642)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10518)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11268)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12313)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11179)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12494)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11431)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11520)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11311)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11595)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13006)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14183)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11020)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11877)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13180)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11588)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11442)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11295)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10828)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10901)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10272)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17124)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11017)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10875)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10422)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10770)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11391)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11089)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10586)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11385)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10360)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10657)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12778)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19286)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19725)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21306)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20349)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19775)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19060)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20500)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21103)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17941)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21859)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant