Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan Huế

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9785)
Vu Lan Huế

VU LAN HUẾ
Thái Kim Lan

Khi mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lỉm trong lòng sông Hương nơi khúc quành chùa Linh Mụ, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ

blankMưa trút xuống bên tê Bãng Lãng Nguyệt Biều, lùa mây từ triền núi Trường Sơn mờ mịt quyện đồi Hà Khê, theo gió chới với trên hàng cau bên ni sông làng Xuân Hòa, sau đó không lâu, màu xanh từ đồi Thọ Cương đến vườn Kim Long, Linh Mụ, Hương Hồ, Văn Thánh bập bềnh trong màn nước, cả vùng không gian sông núi choáng ngợp trong màu hồ thủy. Từ bên ni bờ sông nhìn vọng qua màn mưa về phía núi, đỉnh Kim Phụng chập chờn lung linh như đầu một con rồng thần thoại đang dùng ảo thuật biến những luồng khí nóng xích tử ngùn ngụt như những con rắn lửa đang bóp nghẹt cỏ cây chết đứng thành những trận mưa rào sung mãn. Từ bến sông mưa tạt vào mái hiên từng làn hơi nước mát mẻ như những đợt sóng, mong manh thoáng gió hắt vào da thịt đang còn hừng hực nắng tháng năm tháng sáu. Sự va chạm gây một nỗi sửng sốt ngưng thần, đưa cảm xúc vào trong một bước ngoặt, nghe như có tiếng trở về của hoa lá ngoài sân! 

Mưa Ngâu thường hay kéo dài từ chiều đến quá khuya, sướt mướt như nỗi lòng của Chức Nữ nhớ Ngưu Lang trong những mùa trăng khuyết, ào ạt trên lá chuối lá lá vải lá giáng châu trong vườn cây, sầm sập trên mái nhà, nhưng âm vang nước chảy lại gây một cảm giác thoa dịu lạ lùng và giấc ngủ đầu tiên đến êm ả sau mấy tháng hè ngộp thở…

blankBuổi sáng sau cơn mưa, khí trời trong vắt như “vũ trụ choàng áo mới" (1), trong suốt đến nỗi có thể nhìn rõ được từng ngọn lá của cây nhãn cổ thụ nơi bến đò Long Thọ bên kia sông. Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm từng ngụm trong hơi đất mát rượi thoảng bên hiên. Có thể ngồi yên rồi đó! Định thần trong một giây! Hết bồn chồn cánh quạt tre phần phật! Nút áo “cổ kiềng" (2) trên cùng đã được cài cùng một lúc với thoáng gai mình chợt lạnh, nghe chân bước không gấp trên lối mòn ra ngõ nhìn sông hay lững thững quanh vườn tỉ tê thăm hoa lá. Thế rồi, giữa nhịp bước đi và dừng lại, nơi một khoảnh khắc bất định như không phải giờ của đồng hồ, có thể ngày hôm ấy hay hôm sau hay mai kia, với một chút bất ngờ có thể làm nở nụ cười toại nguyện, từ dòng sông vọng về tiếng réo rắt của một cung đàn kim cổ, âm thanh dội qua bờ bên kia rồi quay lại trên đầu những dợn sóng lăn tăn, đuổi theo con thuyền đang thong thả tay chèo ngược dòng Hương Giang lên điện Hòn Chén. Con thuyền lướt trên vùng nước bàng bạc màu xanh lục thủy trông khác ngày thường, không còn xuôi ngược tảo tần như mọi khi, mà thong dong như một gã tài tử lỏng buông tay khấu, với những chuỗi phướn xanh đỏ đủ màu phất phơ trước gió và cạp điều thắt lưng, lọng vàng sáng chói, trông ngoạn mục giữa cảnh đất trời u mặc sau cơn mưa. Cũng trong không gian mộc mạc không lời của trời mây cây cỏ trong đáy nước, âm giai nhị hồ, nguyệt cầm, sáo trúc, kèn và trống chầu văn chỏi lên những tấu khúc lạ lẫm như của những tay chơi ngoại cuộc hào hoa, kích động một thớ giây thần kinh nào đó trong cơ thể, lóe sáng trong tim một ánh vui như màu hồng sen cánh gián của hoa đông lan đang lấp ló trong khóm lá xanh bết bùn của trận mưa ngâu trước ngõ. Nhịp chân của ai đó trên đường đi bỗng dừng lại nửa giây, như để đưa đà vọt lên cao trong một vũ điệu giật gân, cùng lúc với cái ngảnh đầu nhìn ra sông thu nhận con thuyền trẩy hội đang chuyển động trong võng mô.

Hình như hàng năm, nghi lễ không gianthời gian vẫn là những vết xe quay tròn một chu kỳ, chỉ có cơn mưa, dù đã nghìn năm cổ độ, cũng như tiếng đàn vọng từ bách thiên vạn kiếp tuy đến đúng hẹn mà vẫn đột ngột, bất ngờ gây cảm, đánh nhẹ trên phím đàn bỏ quên ngày tháng, nhắc nhở lòng người rằng, từ đây cho đến khi mảnh trăng thượng tuần mới mẻ xuất hiện cùng với sao hôm là Huế đang ở trong thượng tuần tháng bảy, mùa Vu Lan đang đến! Mỗi năm và mấy mươi năm sau, vẫn mưa ngoài ngõ, vẫn tiếng đàn réo rắt trên sông vào một chiều bãng lãng với con trăng thượng tuần treo nơi đầu núi, Vu Lan Huế!

Vu Lan Huế đã đến trong tuổi thơ của tôi như thế, trong bầu trời tháng bảy của vùng đất Linh Mụ cùng với bóng dáng thân thiết vào ra của bà và của mẹ trên các lối đi về. 

blank
Cùng với tiếng mưa và âm vang của đàn sáo trên sông, câu chuyện cổ tích ban đêm không còn khúc khích với “con trâu cười con cọp đến rụng hết cả hàm răng”, với “nắm xôi Bờm cười”, với “bắt cô trói cột” hay “trâu cột ghét trâu ăn”… Áp đầu vào ngực của bà, nghe giọng kể chuyện trầm đều dần dà đượm vẻ huyền bí mủi lòng với hồn ma Cúc Hoa thương con hiện về bắt chí cho con bên mộ trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, hay ấm áp sùng thượng cảm kích với tấm lòng chí hiếu của Mục Kiền Liên nguyện đi cứu mẹ từ hỏa ngục. Trong cơn mộng mị, chiếc thuyền ngũ sắc trôi bồng bềnh giữa tiếng hoà tấu ngũ âm theo với giòng mưa, đong đưa như một chiếc võng, có thể “trôi” trên đất liền và “đi” bộ trên sông! Vũ trụ không còn hạn hẹp mà mở ra với nhiều tầng thế giới. Nhân gianđịa ngục chỉ cách nhau một nét chập chờn giữa ánh trăng và bóng lá, không thế giới nào thực hơn thế giới nào…

Mấy nghìn năm thuở trước thời Đức Phật mà như mới hôm qua… Mấy tầng thế giới như vừa xích lại gần nhau… bằng tấm lòng THƯƠNG MẸ của Mục Kiền Liên Bồ Tát, một trong những đệ tử gần gũi nhất của Đức Phật, có thiên khiếu nhìn thấu suốt mấy cõi trời, bằng con mắt có thể vén màn vô minh đã nhìn được mẹ đang bị trừng phạt trong chốn A tì. Mục Kiền Liên đi tìm mẹ, một “vong nhân” vì đã sống thiếu lòng nhân ái nên bị đày đọa trong chốn địa ngục tối tăm. Mục Kiền Liên đi vào điạ ngục cũng không khác chi một Orphée (3) của thần thoại Hy Lạp đi tìm người yêu trong cõi chết hay một nghệ sĩ ôm đàn lang thang muôn kiếp qua nhiều cõi ngân hà để một ngày vào độ trăng rằm chay đàn cứu độ những kẻ đọa đày trở lại làm người trên thế gian. Cũng thế, chiếc bồn tên gọi là Vu Lan Bồn – cái chậu chứa đựng những định lực tu chứng thâm hậu nhất của những đệ tử Đức Phật có thể giúp chuyển nghiệp ác của một ngạ quỉ sang nghiệp lành của một con người – có mãnh lực cũng chẳng khác chi tiếng sáo của Orphee dẫn đường cho Euride trở lại thế gian hay tiếng trống chầu văn của nghệ nhân trên điện Hòn Chén đưa người đồng xuất thần nhập cốt. Vạn vật hoà đồng trong một vũ trụ không có phân ranh, “ở vào chốn không vang đi vào chón không phương… để chơi bên miền không mối, ra vào chỗ không bờ cõi …” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn hoá, 1994, chương XI, “Tại Hựu”, tr. 260 

Thế giới Vu Lan đã mở ra trong trí tưởng trẻ thơ của tôi từ những mảnh cảm thức trực quan như thế, nhưng cũng từ đó, không cần giải thích thêm, đứa trẻ đã sốngVu Lan, đã hiểu được qua Vu Lan chữ HIẾU gắn liền với chữ THƯƠNG, không hạn hẹp mà rộng mở cho vô lượng chúng sinh: “tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”. Không cần mở trang sách giáo khoa thư vỡ lòng “tháng giêng là tháng ăn chơi...” cho đến tháng bảy ngày rằm… Vu Lan cũng đã được cảm nhận như là một ngày lễ hội tôn giáo trong năm rất gần gũi với con người, gần gũi như tình mẹ thương con, con thương mẹ, như mưa ngoài sông, như trăng lên đầu ngõ, như tiếng nhạc lạ lùng trên sóng nước. Nhưng Vu Lan cũng đồng thời là CƠ HỘI SIÊU THOÁT của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hoá để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình con người có thể “xá tội vong nhân”, - “xá tội” chứ không “rửa tội” – vong nhân vô lượngmê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian. Ý nghĩa của ngày Vu Lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh, tưởng như sẽ không thấu hiểu hết được đối với những trí óc còn non nớt thơ sinh hay ngu muội, nhưng có lẽ sự diệu kỳ của bước chuyển hóa “xá tội đổi nghiệp”, đổi nghiệp “bát cơm lửa” thành nghiệp “bát cơm lành” không nằm trên bờ luận lý phân chia, mà ở nơi một tiếng đàn đang rơi xuống mặt nước sông Hương, bỗng hoá nên đơn giản!

Vu Lan Huế đơn giảnhồn nhiên như con thuyền ngược giòng Hương Giang qua chùa Linh Mụ trầm tư quán tưởng rồi bỗng ca nhạc vang lừng xanh đỏ thẳng tay chèo đến điện Hòn Chén nhảy múa lên đồng, đến nỗi cái nhìn của người Phật tử chân chính, của quí ôn (ông – tiếng địa phương) quí thầy lắm khi trở nên nghiêm khắc đối với hiện tượng gần như lạc hướng này. 

Sau mấy tháng kiết hạ giữ giớichiêm nghiệm quán tưởng, rằm tháng bảy là ngày trăng tròn đầu tiên được xem là ngày giác ngộ giải phóng cho tất cả chúng sinh từ con người giới hạnh cho đến những con người tha hóa, từ con người đang sống trên thế gian cho đến những hồn ma bóng quế trong chốn ngục tù tối tăm. Ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ đầu tiên Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người. Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hoá kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu Lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng!

Cho nên lòng người náo nức niềm vui hoá kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hoá kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành !

Tôi đã sống những ngày náo nức như thế từ khi mảnh trăng thượng tuần lơ lửng trên đỉnh núi Kim Phụng mỗi ngày một tròn thêm. Có một sự chờ đợi nôn nao, như người bên ni sông chờ người bên tê sông khi chợt nhận ra chiếc thuyền thấp thoáng trong tầm nhìn. Tôi đã thấy sự háo hức của bà của mẹ, của các mợ, các dì, các cô, những người đã làm mẹ nên biết thương mẹ đậm đà, nhớ mẹ từng giây, trong những ngày từ mồng chín dến mười lăm. Họ hẹn nhau đi từng đoàn đến các chùa lạy Phật. Huế có bao nhiêu chùa thì họ đi đến bấy nhiêu, cầu nguyệnđảnh lễ Phật hầu như không mệt mỏi. Đối với họ - và về sau cũng đối với tôi - mỗi lần cúi lạy là một lần gần thêm với mẹ đã xa cách nghìn trùng, mỗi lần đem cơm cho những kẻ khốn cùng là một cơ hội chuyển chén than thành cơm trắng ngọt ngào ở nơi cõi xa nào đó chưa hề bước tới. Huế tưng bừng nơi từng gốc cây cổ thụ với các buổi cúng cơm cho vong nhân khuất mặt, những buổi cúng thị thực ngoài trời cho cả thiên thần quỉ vật. Vu Lan là một ngày lễ thánh thiện nhân ái nhất trong năm với tấm lòng tự nguyện từ bi hỉ xả cho muôn loài. 

Tôi vẫn còn nhớ nụ cười tươi rói của mợ Luân hàng năm khi kể cho tôi nghe mợ đã đi lạy Phật nơi mấy mươi chùa, và Linh Mụ sẽ là ngôi chùa cuối cùng dành cho ngày mười bốn mười lăm. Tiếng cười trong sáng bỗng trầm xuống pha lẫn chút tinh ma cấm kỵ khi mợ báo tin đã thuê thuyền vào đêm mười bốn để chị em cùng nhau lên điện Hòn Chén coi lên đồng – mà đừng “ mét” ôn Linh Mụ (Hòa thượng Đôn Hậu trụ trì chùa Linh Mụ) không thôi sợ ôn la – sáng hôm sau sẽ về lễ Phật tại chùa Linh Mụ.

Hàng năm và hàng năm đó là hành trình Vu Lan Huế. Vu Lan Huế bắt đầu bằng một nẻo đường tâm cảm huyền bí, bằng con thuyền ngược bến Linh Mụ lên điện Hòn Chén để sống những buổi lễ hoá thân như một hình thức thoát xác, chuyển hoá bằng những phút xuất thần, bằng tiếng nhạc om thòm ma quái giựt gân, một nghi lễ “chuyển bờ” từ địa ngục lên đến nhân gian, từ nhân gian lên đến cõi trời. Trong tuổi thơ, chiếc thuyền với cung đàn réo rắt đã trở nên một linh cảm về những thế giới ngoài tầm giới hạn của ba chiều không gian…

Mấy mươi năm sau trở lại Huế, đã là một Phật tử thuần thành học Phật nhiều năm, tình cờ vào dịp Vu Lan, cùng với con tôi lại ngược dòng Hương Giang – lần này trốn ôngTừ Đàm – chúng tôi đi thuyền lên điện Hòn Chén để xem lễ rước Cha rước Mẹ như mọi năm. Ấn tượng của các buổi lên đồng không còn huyền bí mê hoặc như trong thời thơ ấu, có một lúc tôi đã nghĩ điện Hòn Chén không thuộc vào ngày lễ Vu Lan đầy ý nghĩa nhân bảngiác ngộ, nếu không có cơn mưa chợt đến trong đêm. Tiếng mưa trên sông và sóng vỗ mạn thuyền nơi bến Hòn Chén hoang vu gây một âm vang kỳ diệu như tiếng chân của những người trở lại cõi trần. Từ thuyền nhìn ra thấy sông nước mênh mông một màu đen huyền hoặc, những bong bóng nhảy múa sáng lấp lánh của muôn nghìn giọt mưa vỡ ra trên sông, bỗng hiển hiện trong tâm lời kinh “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương như điển chớp”. Sáng sớm hôm sau thuyền về bến Linh Mụ khi trăng khuya chưa tàn và hồi chuông công phu buổi sáng vừa điểm. Không khí như ở nơi Niết Bàn sau những ngày quanh co trên những nẻo đường từ những cõi mộng huyển bào ảnh – với những ngụm trà ướp sói thong thả từng ngụm từng ngụm ấm và thơm, không một lời…

Trở về nhà tôi đọc cho con nghe lời của Phật trong buổi giảng cho Mục Kiền Liên :
 “Này các tỳ kheo, thượng đế cư ngụ trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Nhhững hiền triết bậc nhất cư ngụ ở trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Những thần linh bậc nhất cư ngụ nơi những gia đình có con cái kính yêu cha mẹ. Những người đáng tôn thờ cư ngụ trong những gia đình có con cái kính thương cha mẹ.

Này các tỳ kheo, “thượng đế” là danh xưng của mẹ và cha; này các tỳ kheo, những vị “hiền phụ bậc nhất”, đó là danh xưng của mẹ và cha, những “vị thánh bậc nhất”, đó là danh xưng của cha và mẹ; những “người đáng cầu khẩn tôn thờ”, đó là danh xưng của cha và mẹ. Nhưng vì lý do gì? Bởi vì, này các tỳ kheo, bởi vì cha mẹ đã làm rất nhiều cho các con. Cha mẹ là người sinh thành, là người dưỡng dục nuôi nấng, là người hướng dẫn con cái vào đời.

Kệ rằng : 
Thượng đế là mẹ cha 

Thầy đời là mẹ cha 

Mẹ cha nên thờ kính 

Mẹ cha thương muôn loài 

Hiền giả kính cha mẹ 
Dâng cúng nước và cơm 

Áo mặc và giường nằm 

Tắm rửa và xoa bóp 

Săn sóc đến tay chân 

Kẻ nào dưỡng mẹ cha 
Ở đây được ngợi ca 

Của những kẻ hiền giả 

Ở đó được hưởng phúc 

Của trời dành ban cho

(Kinh Anguttara-Nikaya, quyển IV, trang 70, bản dịch từ tiếng Phạn của Nyanatiloka, dịch từ bản Đức ngữ)

Tôi đã cùng đọc kinh với con trong khu vườn Linh Mụ, khi ngoài sông thấp thoáng con thuyền tài tử chở chiếc đàn Orphée xuôi dòng Thuận An… 

Ghi chú: 

(1) Lấy ý từ bài thơ của Hòa Thượng Mãn Giác
Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ 

Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình 

Sáng nay thức dậy choàng thay áo 

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh 

(2) Cổ kiềng: cổ áo của một loại áo ngắn như kiểu áo bà ba trong Nam, cổ áo ôm sát cổ và được may viềng nẹp như cái kiềng, người Huế gọi là áo cổ kiềng

(3) Orphée hay Orpheus: nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, là một nghệ sĩ có giọng ca và đàn ly cầm rất hay, con của nàng thơ Kalliope va Apoll, Orphée có thể dùng tiếng đàn và lời ca mê hoặc ngay cả những con thú hoang dại cũng như sỏi đá và cây cỏ. Nhờ giọng ca, Ophée thuyết phục được những vị thần ở dưới điạ ngục cho phép Eurydike người vợ thân yêu đã chết trở lại cõi trần với chàng. Trên đường đưa vợ từ địa ngục trở về, khổ thay chàng đã quên lời dặn của các vị thần không được quay sang nhìn Eurydike, không nhịn được lòng nhớ mong chàng quay sang nhìn nàng và Eurydike phải quay về địa ngục.

Thái Kim Lan
(Phật Tử Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14426)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39696)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13876)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40049)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12649)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13822)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37231)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12661)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11746)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22530)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12506)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12568)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13046)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33223)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12448)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13126)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51245)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12378)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6606)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30401)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13308)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30666)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19342)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12473)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14755)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13188)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12023)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11820)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12712)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31885)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29401)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11778)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9645)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9969)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10138)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27790)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15471)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9828)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18306)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8698)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8406)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11473)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31717)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11931)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9215)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29341)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9065)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33221)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8419)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30590)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31208)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37096)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32239)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9913)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27083)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8440)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19224)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant