Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan - ngày tự tứ

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8705)
Vu Lan - ngày tự tứ

VU LAN NGÀY TỰ TỨ

Hoà Thượng Thích Thanh Từ

Hôm nay nhân ngày lễ Vu Lan tức ngày Rằm tháng Bảy, trong đạo gọi là ngày tự tứ của chúng Tăng. Tất cả quý Phật tử tụ tập về chùa làm lễ cúng dường chư Tăng và cũng để nghe quý thầy nói về ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan. Như vậy chữ Vu Lan mang ý nghĩa gì ?

Trong đạo Phật, ngày Vu Lan là ngày nói lên tinh thần phục thiện, hối cải của Tăng Ni, vừa gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật, vừa là ngày tha thứ mọi lỗi lầm của chúng sinh. Đó, nó mang những ý nghĩa quan trọng như vậy. Cho nên mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy, Phật tử chúng ta đều tụ hội về các chùa để cúng dường cầu nguyện và để nghe, hiểu được tinh thần đạo hiếu. Bây giờ chúng tôi sẽ giảng từng mục để quý vị thấy rõ tinh thần phục thiện ấy như thế nào.

Ngày lễ Vu Lan nói theo nhà đạo là ngày tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình. Những lỗi lầm đó hoặc là các Ngài thấy, các Ngài nghe cho đến chưa thấy, chưa nghe mà chỉ nghi thôi cũng cứ chỉ. Nếu mình thấy đó là lỗi thật thì mình thành tâm sám hối chớ không dám cãi, không dám bỏ qua. Bởi vậy nên ngày này chư Phật rất vui vì thấy chúng đệ tửtâm hồn phục thiện, biết cải hối những lỗi lầm. Do đó cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ. Đó là ý nghĩa thứ nhất.

Ý nghĩa thứ hai, ngày này là ngày gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật. Bởi vì theo tinh thần kinh Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy chính là ngày Tôn giả Mục Kiền Liên tìm thấy mẹ đang sanh trong kiếp ngạ quỷ khổ đau, mà tự bản thân Ngài cứu không được. Ngài mới nhờ Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ. Nhân đó Phật dạy muốn cứu mẹ thoát khỏi tai ách, phải nên cúng dường chư Tăng, Ni. Nhờ lực gia trì của Tăng, Ni phụ giúp cho mẹ Ngài chuyển đỗi tâm ác, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Với lòng thành kính của người con thảo, Ngài đã thực hiện đúng những lời Phật dạy và mẹ Ngài cũng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Nên ngày nay chúng ta học theo gương của Ngài. Thường những khi tụng kinh chúng ta hay niệm "Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bổ tát" để tưởng niệm Ngài là một người con hiếu thảo. Tuy xuất gia tu hành mà Ngài vẫn còn lo sợ cha mẹ không có phước, sanh chỗ không tốt nên Ngài tìm kiếm xem mẹ đã sanh ở đâu. Khi thấy mẹ sanh trong kiếp ngạ quỷ, động lòng thương mẹ, Ngài liền thỉnh Phật chỉ dạy phương cách cứu mẹ. Chính nhờ lòng thành đó mà đến Rằm tháng Bảy là ngày tự tứ của chúng Tăng, Phật dạy chúng ta nên cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng phụ lực mà thân mẫu trong nhiều đời được siêu thăng. Nên ngày này còn gọi là ngày báo hiếu.

Trong mùa này, mỗi Phật tử chúng ta nhớ lại công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng cực khổ, cho nên chúng ta nhờ sức chú nguyện của chư Tăng, Ni; nếu cha mẹ có sa vào đường khổ thì nhờ phúc đức này được thoát khỏi. Còn nếu cha mẹ không đi trong đường khổ thì nhờ phúc đức này mà được tăng trưởng thiện căn. Nếu cha mẹ hiện tiền cũng nhờ đó mà tăng trưởng tuổi thọ và phát tâm Bổ đề. Đó là ý nghĩa báo hiếu của người con Phật.

Bởi vậy ngày Vu Lan còn có tên là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày mà mọi người đều ăn năn, xin cải đổi sám hối, mong các vị lớn tha thứ cho. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm cầu nguyện cho các vong nhân được khỏi những kiếp khổ đau.

Tôi đã kể sơ qua về ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan rồi. Bây giờ đi sâu hơn về hạnh hiếu của người con Phật. Nhiều khi quý Phật tử thắc mắc, Phật dạy làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, nhưng quý thầy, quý cô lại bỏ cha bỏ mẹ đi tu, như vậy là bất hiếu rồi, làm sao dạy Phật tử có hiếu được? Không phải vậy. Mới nhìn chúng ta thấy như là bất hiếu, nhưng trái lạichí hiếu. Tại sao? Vì đi tu không có nghĩa là tìm nơi an nhàn để thụ hưởng yên ỗn cho riêng mình; mà vì thương cha thương mẹ, thương chúng sinh, muốn tu làm sao tự bản thân mình giải được những phiền não khổ đau, rồi sau đó giúp cha mẹ và hướng dẫn mọi người hướng về con đường đạo đức, bỏ đi những điều tội lỗi. Đó là đền đáp công ơn cha mẹ.

Theo thế gian, hiếu thảo với cha mẹ là lo đủ mọi thứ, nào là cơm ăn, áo mặc, giường chõng, thuốc men... nhưng có người nào lo mà cha mẹ khỏi chết không? Dù nuôi kỹ cách mấy rồi chết cũng phải chết. Theo tinh thần đạo Phật, chúng ta không chỉ có mặt ở một đời này mà còn có mặt ở vô số kiếp về trước và sau nữa, nên mất thân này sẽ mang thân khác. Do đó nếu ngay thân này không biết làm lành thì e rằng đời sau sẽ đọa những đường khổ. Bởi vậy người tu phải làm sao thức tỉnh cha mẹ hướng về con đường lành, để cho cha mẹ có mất đi thì sẽ được hạnh phúc, an vui trong những đời sau.

Tôi thí dụ như cha mẹ năm sáu mươi tuổi, có con mười mấy tuổi phát tâm đi tu, ban đầu cha mẹ buồn trách nhưng sau đó lại tự xấu hổ. Vì nghĩ rằng con mình còn nhỏ nhưng không ham ăn, không ham danh lợi, còn mình già rồi mà vẫn chưa thức tỉnh. Nghĩ vậy, tự nhiên mình cũng bắt chước, lần lần bớt ham ăn, lại tập ăn chay; bớt ham danh lợi, nhờ vậy mình tu từ từ. Rõ ràng, lúc đầu thì thấy con như dở, nhưng càng về sau lại thấy càng hay. Cho nên phần nhiều những gia đình có con đi tu thì dần dần cha mẹgia quyến cũng bắt chước tu theo. Đó là tinh thần hiếu đễ của người xuất gia.

Người ở thế gian cứ nghĩ nuôi cha mẹ được ấm no, đầy đủ là có hiếu, nhưng quên rằng tuổi thọ cha mẹgiới hạn, tới mức độ nào rồi cũng phải đi. Cho nên làm sao vừa lo cho hiện tại được ấm no mà nghĩ tới tương lai, sau khi cha mẹ bỏ thân này được thân sau cũng phải sáng sủa, tốt đẹp hơn nhiều. Đó mới gọi là người biết lo chân chính, lâu dài. Như vậy tinh thần của người tu không phải là bỏ cha mẹ mà là thương cha mẹ. Vì muốn hướng cha mẹ về đường lành, hướng thân quyến phát tâm Bồ đề nên mới đi tu.

Với truyền thống người Việt Nam ta, hiếu thảo là một điều rất thiêng liêng, rất cao cả. Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết. Thuở xưa cha ông chúng ta cũng từng răn dạy những điều đó. Tôi dẫn một ít đoạn trong ca dao, tục ngữ để quý vị thấy hiếu thảo là một điều hết sức quan trọng.

Nuôi con chẳng quản chi thân 
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn 
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn 
Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.
Qua bốn câu này, quý vị thấy người bình dân Việt Nam đối với công ơn cha mẹ rất là thắm thiết. "Nuôi con chẳng quản chi thân", khi cha mẹ nuôi con thì không nghĩ gì tới mình hết, miễn con khỏe mạnh là cha mẹ vui. Con bệnh hoặc bị phiền não hay tật nguyền gì đó thì cha mẹ buồn khổ. Cha mẹ muốn hy sinh thân mình cho con được khỏe mạnh. Dù cực khổ, khó khăn đến mấy cũng vẫn không nề, không chán. Câu sau "Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn", thật thấm làm sao ! Những năm trước bốn mươi lăm, ở Việt Nam mình kinh tế rất là chật vật, quý vị nào có ở miền quê mới thấy cảnh cha mẹ nghèo ở nhà lá rách, giường chiếu chỉ có một đôi thôi. Con nhỏ chừng một, hai tuổi ban đêm có bệnh hay đái dầm. Khi đái dầm thì ướt, ướt mà không có chiếu thay nên mẹ nằm bên ướt, để con chỗ khô ráo cho nó ngủ ngon. Cái tình của người mẹ quê như vậy, người không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ làm sao cho con ngủ ngon giấc, con được khỏe mạnh, con chóng lớn lên. Người mẹ xưa đã sống trong cảnh cơ cực đó nên mới nói lên được câu này : "Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn". Người mẹ lúc nào cũng trải thân mình cho con cái, quên cả mọi khổ sở, mọi đau đớn, miễn làm sao cho con ăn ngon ngủ được, đó là yên lòng mẹ.

Cha mẹ đối với con đã không kể thân, không nghĩ tới phần của mình, thì làm con cái phải làm sao? Chúng ta là con, muốn đền được ơn đó thì phải nhớ câu: "Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, lên non xắn đá xây lăng phụng thờ". Khi cha mẹ chết rồi mình mới lớn khôn, nhớ ơn cha mẹ không biết làm sao cho nên cạy đá, xây lăng thờ cha phụng mẹ, đó là nói theo người thế gian. Còn nói theo tinh thần đạo Phật thì nếu cha mẹ chết rồi, chúng ta ráng làm điều lành, điều phước để hổi hướng cho cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sinh tiền, chúng ta lo lắng cho cha mẹ được ấm no, được hạnh phúc, biết quy hướng về Tam bảo, đó là bổn phận của người con hiếu.

Lại một bài nữa :

Công cha nghĩa mẹ cao vời 
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta 
Nên người, ta phải xót xa 
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Nghĩa là công ơn cha mẹ rất cao vời, không có gì sánh được. Cha mẹ có khi nào nghĩ rằng tôi nuôi nó chừng ba năm, bảy năm rồi bỏ nó muốn ra sao thì ra đâu. Từ thuở còn bé, nằm nôi cho tới khi lớn khôn, có đôi bạn, có con, vẫn cứ lo. Hết con tới cháu, cho tới đầu bạc phơ, rồi tới ngày tắt thở mới thôi. Như vậy để thấy thâm tình cha mẹ đối với con không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy bỗn phận làm con ta phải làm sao? "Nên người, ta phải xót xa", khi lớn khôn rồi nghĩ đến công ơn cha mẹ như trời cao, biển rộng. Ân nghĩa đó nặng nề sâu thẳm chớ không phải là thường. Cho nên người Phật tử khi nghĩ tới công ơn cao siêu vời vợi của cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hết dạ đền đáp. Nếu không đền đáp được nhiều ít ra cũng năm, mười phần chớ không thể nào chúng ta bỏ mặc cha mẹ ra sao thì ra, đó là không biết đạo nghĩa. Trong đạo Phật thường nhắc nhở, trong năm tội ngũ nghịch thì tội bất hiếu với cha mẹ là đầu.

Tôi dẫn một câu chuyện hiếu thảo hơi lạ để quý Phật tử thấy rõ ý nghĩa công ơn cha mẹ như đã nêu. Ngày xưa có anh chàng nọ vừa dở, vừa không gặp thời, làm ăn đâu thất bại đó. Gia đình một vợ năm bảy con, nuôi không xuể, thiếu hụt đủ thứ. Cạnh bên có người láng giềng rất hào hiệp, mỗi khi anh túng quẫn anh qua nhà ấy vay mượn, mượn rồi không có tiền trả. Thời gian sau túng quẫn nữa anh lại qua nữa, nhưng rồi cũng không có tiền trả. Tuy nhiên người hảo tâm kia vẫn cứ cho mượn hoài, đến khi anh nhà nghèo già và chết. Khi ấy anh bị lôi xuống Diêm Vương, ngục tốt tra khảo sổ sách thì thấy anh nợ người láng giềng quá nhiều, Diêm Vương ra lệnh: "Bây giờ chú mày phải sanh trở lại làm trâu kéo cày để đền trả nợ trước". Anh chàng đó nói:

- Không được, cho làm trâu không đủ trả, xin cho tôi làm cha nó mới đủ trả.

Diêm Vương ngạc nhiên quá :

- Tại sao đã thiếu nợ người ta mà còn đòi làm cha người ta nữa?

Anh chàng liền giải thích :

- Nếu làm trâu thì sống bảy tám tuổi, cao lắm mười hai tuổi là chết. Mười hai năm kéo cày trả nợ không đủ. Chỉ có làm cha là tôi lo cho đến hết đời, nuôi nấng họ đến hết đời. Hết đời tôi rồi, còn dư bao nhiêu tiền của để lại cho họ luôn. Nếu tôi còn sống dai thì nó có cháu, có chắt tôi cũng nuôi tất. Như vậy mới khả dĩ trả hết bởi nợ to quá.

Như vậy quý vị thấy làm cha còn nặng hơn làm trâu nữa. Vì làm trâu chỉ giới hạn bảy tám năm hay chín mười năm thôi, còn làm cha là suốt một đời, trả hoài cho đến đời cháu nữa. Và có ai chửi mắng gì mình cũng nhận chịu luôn. Nhận hết mọi việc như vậy mới đủ trả. Câu chuyệntính cách khôi hài, nhưng qua đó chúng ta thấy công ân của cha mẹ không thể kể hết, phải không? Cho nên người ta bảo kiếp làm cha mẹ đối với con còn hơn kiếp trâu ngựa nữa chớ không phải là vừa. Vậy mà nhiều khi con không nhớ, không biết, còn phụ rẫy, bạc bẽo lại với cha mẹ nữa. Thật là tội lỗi biết bao!

Đã không biết ơn cha mẹ thì ơn xã hội chắc càng không biết. Nếu người không biết ơn nghĩa gì hết thì con người đó gọi là con người gì? Con người vô ơn bạc nghĩa. Đã là người vô ơn bạc nghĩa thì còn dùng được chỗ nào? Bởi vậy muốn thành một người tốt đối với xã hội, trước hết chúng ta phải là người con hiếu thảo với cha mẹ. Do biết thương cha mẹ nên mình không đánh lộn, cãi lộn, hút thuốc, uống rượu, làm những việc hư thân khiến cha mẹ buồn. Nhờ thế mà mình thành một người tốt trong xã hội. Thế nên hiếu thảobước đầu để xây dựng gia đình tốt đẹp, xã hội văn minh, quốc gia cường thịnh.

Đến đây, tôi dẫn một bài phú dạy con, nếu nói đủ tên là bài phú Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi chết, xuống âm ty bảy ngày thấy hết các việc ở địa ngục, được sống trở lại làm phú dạy con. Mạc Đỉnh Chi nguyên là một vị Trạng nguyên sống ở cuối đời Trần, cũng là một nhà Nho rất tài ba lỗi lạc. Theo truyền thuyết kể lại, có thời gian ông chết luôn bảy ngày. Sau bảy ngày đó ông sống trở lại và làm bài phú này dạy các con của ông. Bởi trong bảy ngày đó, ông đã trải qua cảnh âm phủ và được thức tỉnh nên ông muốn các con mình phải ăn ở sao cho hợp đạo lý, khỏi bị đọa xuống địa ngục chịu những tội khổ. Bài phú rất dài, ở đây tôi chỉ trích một ít đoạn đọc cho quý vị nghe :

Bài phú này là văn Nôm nên có những tiếng rất xưa :

Nhất thiết thăng trầm,
Mệnh sinh ngũ dục.
Nghiệp nặng nhiều ngày,
Sinh loài hữu trược.
Vì lòng vì dạ,
Thương cái thương con.
Chịu khó đêm ngày,
Cưu mang đùm bọc.
Đó là phần mở đầu. Ngài nói tất cả chúng ta ở trên thế gian này có khi thăng, có khi trầm. Thăng tức là sanh các cõi trên, trầm tức là chìm các cõi dưới. "Mệnh sinh ngũ dục" tức là mạng sống mình sanh trong cõi đời ngũ dục này. "Nghiệp nặng nhiều ngày, sinh loài hữu trược", bởi vì nghiệp nặng lâu rồi cho nên sinh trong cõi hữu trược ác thế này. Và Ngài kết lại : "Vì lòng vì dạ, thương cái thương con. Chịu khó đêm ngày, cưu mang đùm bọc", người cha người mẹ thương con thương cái nên đêm ngày cưu mang, đùm bọc cho nó.

Đoạn kế tiếp :

Mình nằm địa ngục,
Vò võ đêm ngày.
Một mình khó thay,
Chịu thương chịu bức.
Chị em chẳng thấy,
Con cháu hay sao ?
Mình khó mình thương,
Ai coi ai sóc.
Thuở ngồi chưng thế,
Chưa được bao chày.
Đến chết bằng nay,
Người thui người đốt.
Mệnh sang mệnh khó,
Tiếng khóc ngập ngừng.
Than trách thân rằng,
Chẳng hay làm phúc.
Bao nhiêu của tốt,
Con cái chia nhau.
Địa ngục tù lao,
Một mình chịu chết.
Đoạn này ông kể khi xuống địa ngục "mình nằm địa ngục, vò võ đêm ngày", một mình một bóng qua đêm này tháng kia không thấy ai hết. "Một mình khó thay, chịu thương chịu bức" tức là chịu đâm, chịu chém bao nhiêu cái khổ nhọc. "Chị em chẳng thấy, con cái hay sao?", có nghĩa là chị em không thấy mà con cái cũng không có đứa nào thay thế được cho mình. "Mình khó mình thương, ai coi ai sóc", lúc đó chỉ một mình, mình chịu khổ chịu khó, lo cho mình chớ không ai coi sóc, ngó ngàng mình hết.

Thuở ngồi chưng thế, chưa được bao chày" tức là lúc mình còn ở trên trần thế chưa được bao lâu. "Đến chết bằng nay, người thui người đốt", đến khi mình tạo nghiệp ác nhiều quá, mình chết đi bị thui bị đốt. "Mệnh sang mệnh khó, tiếng khóc ngập ngừng" nghĩa là sinh mệnh mình chịu không biết bao nhiêu khổ đau trong các cảnh địa ngục, tiếng khóc ngập ngừng từng chặng, từng chặng. "Than trách thân rằng, chẳng hay làm phúc", đến lúc đó tự than hồi ở dương thế mình chẳng hay làm phúc nên bây giờ phải khổ vậy. "Địa ngục tù lao, một mình chịu chết. Bao nhiêu của tốt, con cái chia nhau", vì làm cho có nhiều tiền của nên có khi phải làm ác, nhưng lúc chết để lại con cái đứa này chia, đứa kia chia, chia cho hết, còn mình thì "Địa ngục cần lao, một mình chịu chết", con cái có biết chút nào đâu.

Đoạn kế :

Cha đà đến đấy,
Biết được lòng thương.
Bảo chúng con hay,
Ở đời làm phúc.
Lâm chung số hết,
Cho kẻo luân hồi
Niệm Bụt ăn chay,
Diêm vương mới phục
Dầu phàm dầu thánh,
Miễn được an nhàn.
Trọng pháp kính thầy,
Thí bần tác phúc.
Cơm ăn phải bữa,
Ai đói thì cho.
Bớt miệng xui lòng,
Mỗi người một chút.
Kim Cương thường đọc,
Bố thí làm duyên.
Nghiệp dữ thì chừa,
Lành thì tua cốc.
"Cha đà đến đấy, biết được lòng thương", Ngài Mạc Đĩnh Chi chết xuống đó thấy thật rõ ràng, chứng kiến được cảnh ấy rồi, nên mới thương xót dạy con "Bảo chúng con hay, ở đời làm phúc", dạy con sống ở trên đời ráng làm phúc, chớ không khéo thì xuống dưới khổ. "Lâm chung số hết, cho kẻo luân hồi", nếu làm phúc thì khi tuổi thọ hết, lâm chung, mình khỏi luân hồi trong các đường dữ. "Niệm Bụt ăn chay, Diêm vương mới phục", sống mà biết niệm Phật, biết ăn chay, biết tu hành thì chết Diêm vương mới sợ mình, chứ còn nhiều của nhiều tiền Diêm vương cũng không sợ đâu. "Dầu phàm dầu thánh, miễn được an nhàn", mình làm phàm hay làm thánh nhưng đến chết miễn được nhẹ nhàng thảnh thơi là tốt. "Trọng pháp kính thầy, thí bần tác phúc", đối với chánh pháp phải kính trọng, đối với người tu chân chính phải tôn quý. Thí bần là giúp cho kẻ nghèo khó, làm những điều phúc thiện.

"Cơm ăn phải bữa, ai đói thì cho", một ngày hai bữa thôi, thấy có ai thiếu thì chia sớt cho họ. "Bớt miệng xui lòng, mỗi người một chút", bớt phần ăn của mình để chia xẻ với người.Mỗi người một chút, cùng sống qua ngày qua tháng với nhau, chớ đừng để mình dư dả quá mà người khác đói thiếu, đó là điều không tốt. "Kim Cương thường đọc, bố thí làm duyên", thường tụng kinh Kim Cương, làm các việc bố thí để gieo duyên lành. "Nghiệp dữ thì chừa, lành thì tua cốc", nghiệp dữ thì chừa còn nghiệp lành thì nhận hiểu và vâng làm. Tua cốc là hiểu biết. Hiểu biết và làm chớ đừng để trôi qua suông.

Như vậy đoạn này ông dạy con cái rất là tha thiết, nhắc nhở con trong cuộc sống này, phải lấy việc làm lành, làm phúc là trên. Khi còn sống biết tu, biết đạo đức thì chết xuống Diêm vương mới sợ, chớ nhiều tiền nhiều của không cứu được mình đâu. Đến đoạn kết :

Hễ phường bạo ngược,
Sát, đạo, tà dâm.
Tội nặng muôn năm,
Phải chừa, phải bớt.
Đội ơn Trời đất,
Cha mẹ sinh thành.
Cho gấp chớ chày,
Tu hành làm Bụt.
Ngài dạy con cháu đừng làm bạo ngược. Phường bạo ngược là gì? Là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, tức ngũ giới. Nếu phạm ngũ giới là phường bạo ngược. "Tội nặng muôn năm, phải chừa phải bớt", đó là tội nặng muôn đời nên mình phải chừa, phải bỏ. "Đội ơn Trời đất, cha mẹ sinh thành", sống trong Trời đất, trong xã hội thì mình phải biết mang ơn chung tất cả, nhất là ơn sanh thành của cha mẹ. "Cho gấp chớ chày, tu hành làm Bụt", phải gấp tu hành chớ đừng chậm trễ, làm sao thành Phật mới là hay.

Bài phú này dài lắm, tôi không có thì giờ đọc hết cho quý vị nghe. Bài phú này còn ghi lại trong văn chương đời Trần chớ không phải câu chuyện truyền miệng mà thôi. Chúng ta thấy Mạc Đỉnh Chi là một nhà Nho, không tin đạo Phật, nhưng chết rồi sống trở lại, chừng đó ông mới tin và khuyên con tha thiết, dạy con phải làm sao ăn hiền ở lành, biết niệm Phật, ăn chay, tụng kinh, trọng pháp, kính quý chư Tăng và làm những điều lành. Ông còn dạy con chỉ hưởng một ít để chia người chứ không vì sung sướngthụ hưởng riêng mình. Ông sợ nhất là những tội sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu vì các tội đó là tội nặng nên muôn năm phải chừa, phải bớt.

Chúng ta quy y với Phật, Phật bắt giữ năm giới là để trừ, để chặn các tội bạo ngược đó, không phạm tội thì mới không rơi vào địa ngục. Lại còn phải biết ơn Trời đất, ơn mọi người và nhất là ơn cha mẹ. Nên gấp tu hành chớ để chậm trễ.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy việc quan trọng ở trên đời, chúng ta phải tu làm sao tránh khỏi tội cho mình mà cũng là tránh khỏi những tội khổ cho người thân của mình nữa. Tôi kể một câu chuyện khác để quý vị nhớ thêm.

Hồi xưa lúc Đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la để giáo hóa trong quyến thuộc. Sau đó bà Di mẫu phát tâm xuất gia, bà tìm tới Phật xin xuất gia thì Phật không cho, nên bà buồn bà khóc. Tôn giả A Nan thấy Di mẫu khóc Ngài xót xa quá, lại nghe Di mẫu kể lể bà quyết tâm xuất gia mà Phật không chịu nhận nên bà tủi thân lắm. Ngài A Nan nói : "Để con xin cho, con xin chắc được". Tôn giả liền vô xin với Phật, Phật cũng lắc đầu. Lúc ấy, Ngài mới kể ơn rằng :

- Lúc Như Lai còn làm Thái tử, sinh ra bảy ngày thì Mẫu hoàng mất, từ đó về sau Di mẫu nuôi Ngài cho tới khôn lớn. Công ơn nuôi nấng đó rất nặng nề, tại sao Như Lai không cho Di mẫu xuất gia để đền ơn khó khổ của Người ?

Đức Phật liền trả lời :

- Ta đã đền ơn Di mẫu rồi.

Ngài A Nan hỏi :

- Như Lai đền ơn bằng cách nào ?

Đức Phật nói :

- Khi ta về thành Ca-tỳ-la-vệ, ta đã khuyến hóa Phụ vương và Di mẫu quy y Tam bảothọ trì năm giới. Quý vị đã thọ trì năm giới thì ta đã đền công ơn nuôi dưỡng rồi.

Theo lời Phật dạy, chúng ta thấy người giữ năm giới bảo đảm không sa vào đường dữ. Thế nên, thương cha mẹ không gì quý hơn là làm sao cho cha mẹ phát tâm quy y Tam bảo, biết giữ gìn năm giới để mai kia cha mẹ trăm tuổi không đi vào con đường khổ. Đó là lòng thương song thân của người Phật tử. Chỉ cần khuyên cha mẹ biết giữ năm giới, biết quy y Tam bảo là đã đủ đền ơn. Cho nên đền ơn cha mẹ không phải bằng những hình thức vật chấtđền ơn bằng tinh thần tu hành. Chúng ta thấy Mạc Đỉnh Chi khuyên con cái tránh đường bạo ngược là sát, đạo, dâm, vọng và uống rượu ; đâu khác Đức Phật nói Ngài thương cha mẹ, giúp cha mẹ giữ được năm giới là đã đền ơn rồi.

Trước tiên, mình phải hiếu thảo với cha mẹ, thì sau con cái mới hiếu thảo với mình. Nếu mình không hiếu thảo với cha mẹ mà bắt con cái hiếu thảo với mình thì điều đó không bao giờ có. Tục ngữ có câu :

Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì hoài công.
Đó, "nếu mình hiếu với mẹ cha, chắc con cũng hiếu với ta khác gì", nếu mình hiếu thảo với cha mẹ thì chắc rằng con mình sẽ hiếu thảo với mình, không có gì khác hết. "Nếu mình ăn ở vô nghì" tức là ăn ở bất hiếu với cha mẹ, "đừng mong con hiếu làm gì hoài công", nếu ăn ở bất hiếu với cha mẹ, mà lại mong con hiếu thảo với mình thì đó là chuyện hoài công, vô ích, không bao giờ có. Đến đây tôi kể một câu chuyện vui nữa :

Hồi xưa, có một anh chàng còn trẻ, mới mười tám đôi mươi thôi mà anh bất hiếu với cha mẹ quá chừng nên thiên đình bắt tội, sai Thiên lôi đánh anh một cái cho nát thây để trị tội bất hiếu. Nhưng Thiên lôi vừa cầm búa chực đánh thì anh thấy, anh chụp tay Thiên lôi lại và hỏi :

- Ngài là Thiên lôi cũ hay Thiên lôi mới ?

Thiên lôi ngạc nhiên quá :

- Cũ mới gì chuyện của tao, không có quan hệ đến mày. Mày bất hiếu thì tao đánh mày.

- Không. Nếu Ngài là Thiên lôi mới thì đánh tôi, tôi chịu ; còn Ngài là Thiên lôi cũ thì cho tôi nói chuyện.

Không biết chuyện gì, Thiên lôi ngừng tay lại nghe hắn nói :

- Ba tôi bất hiếu với ông nội tôi bằng ba lần của tôi mà ba tôi không bị ông đánh, bây giờ tôi bất hiếu mới bằng một phần ba của ba tôi mà ông đánh tôi, vậy không hợp lý rồi.

Thiên lôi đành buông búa đi về.

Quý vị thấy câu chuyện có vẻ tiếu lâm, nhưng nói lên được ý nghĩa cha bất hiếu thì sanh con cũng bất hiếu, không thể nào khác hơn được. Tất cả chúng ta ai cũng muốn con cái sau này hiếu thảo thì bản thân mình phải là những người con hiếu thảo. Có nghĩa là chúng ta vừa làm bổn phận của mình mà vừa làm gương cho con noi theo. Đó là một đức tính tốt, lợi mình lợi người. Nếu chúng ta không hiểu, chỉ một bề sống cho được thỏa thích riêng mình, mà quên ơn lớn của cha mẹ thì về sau chắc chắn sẽ bị con cái phụ rẫy.

Cha mẹ về già thường có những việc dễ làm mình buồn lắm. Thứ nhứt là già hay bệnh hoạn. Già với bệnh theo nhau, bệnh hoạn chừng năm bảy bữa thì con cháu còn sốt sắng, chứ bệnh hoạn tháng này qua năm nọ thì con cháu lo lắng lâu ngày dễ sanh buồn chán. Thứ hai, già yếu hay đau nhức nên thường sanh bực bội, phiền não. Phiền não nên dễ giận, dễ quạu lắm. Con cháu đụng chút liền giận laá; mà la hoài thì nó cũng chán nữa. Thứ ba là cha mẹ già bệnh hoạn ít đi đâu được, cứ ngồi trông đứa này, trông đứa kia. Nếu con cháu chậm về thăm thì buồn phiền, trách móc. Như vậy, con cái thường chán cha mẹbệnh hoạn, vì hay rầy rà, vì hay buồn trách. Do chán nên sanh ra coi thường, vì vậy trở thành bất hiếu.

Tôi xin hỏi tất cả quý vị, mai này chúng ta có già không? Có. Nếu bây giờ mình chán ông mình, cha mình, mẹ mình già sanh tật khó, hay trách cứ nên mình không vui. Không vui nên mình bỏ lãng, mà bỏ lãng thì thành bất hiếu. Ngày nay mình bỏ lãng cha mẹ được thì mai này con mình cũng bỏ lãng mình luôn. Bởi vì khi già mình cũng có những tật y như vậy. Người trước thế nào thì người sau cũng thế ấy thôi. Cho nên dù cha mẹ có khó tính mấy, có bệnh hoạn nhiều, có rầy trách bao nhiêu đi nữa chúng ta cũng vui chịu. Vì nghĩ rầng công ơn cha mẹ không làm sao đền đáp cho cân. Bổn phận làm con phải lo cho cha mẹ, dù chết thân, dù hết của mình cũng làm chớ không vì cái vui riêng, cái lợi riêng mà bỏ cha bỏ mẹ. Như vậy là trái với đạo lý.

Hôm nay nhân ngày lễ Vu Lan chúng tôi dẫn một ít đoạn, vừa ca dao tục ngữ, vừa những lời phú của Mạc Đỉnh Chi để nhắc cho tất cả quý Phật tử biết thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là nên làm, thế nào không nên làm. Nhất là suốt đời không bao giờ mình dám bất hiếu. Người Phật tử có hiếu phụng thờ, lo lắng cho đến ngày nào cha mẹ qua đời mà lòng vẫn còn thương mến, như vậy mới đúng tinh thần Phật dạy. Chúng ta không chỉ lo ăn mặc thôi, nếu cha mẹ còn sinh tiền phải khuyến hóa làm sao cha mẹ phát Bồ đề tâm, biết làm điều phúc, tránh điều tội và biết hướng về Tam bảo tu hành. Đó mới là gốc của hiếu đạo. Nếu cha mẹ đã phát tâm biết làm phúc, biết tu rồi thì chúng ta trợ lực cho sự tu hành đó càng ngày càng tinh tấn hơn, đó là tinh thần của người con hiếu thảo trong đạo Phật.

Quý vị đã có mặt trong hội Vu Lan này, tôi mong rằng chúng ta không đặt việc gì trên cha mẹ, cha mẹ là trên tất cả. Suốt đời chúng ta phục vụ thờ kính cha mẹ cũng chưa xong, đừng nói gì năm năm bảy năm, cho nên phải tu tập hiếu hạnh. Đó là chúng ta đã tạo một nền tảng phúc đức cho mình mà cũng là tạo dựng duyên lành cho con cháu bắt chước ở mai sau. Mong rằng quý vị nhớ và cố gắng thực hành theo. Được vậy mới thật xứng đáng người con hiếu thảo, là người Phật tử chân chính trong đạo.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31680)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11235)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12764)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10815)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16673)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10825)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22976)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12032)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11502)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10694)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12343)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11928)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12379)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11280)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10337)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11064)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10791)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14531)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12564)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9339)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10525)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9200)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9701)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19149)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8991)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14765)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10102)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8957)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14605)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9052)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10180)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11033)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9007)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9477)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9277)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15352)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17453)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14815)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9539)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12370)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11895)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10763)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13350)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10005)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9397)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15908)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant