Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giải trình ý nghĩa Vu Lan

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9065)
Giải trình ý nghĩa Vu Lan

GIẢI TRÌNH Ý NGHĨA VU LAN
THÍCH PHƯỚC SƠN

Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, các Phật tử cử hành lễ Vu Lan báo hiếu một cách trang trọng, đầy cảm động, theo truyền thống Phật giáo Bắc phương, đó là một sinh hoạt tôn giáo bao hàm rất nhiều ý nghĩa

Sự tích báo hiếu này phát xuất từ kinh Vu-lan-bồn, qua tấm gương cứu mẹ của tôn giả Mục-kiền-liên, vào thời đức Phật còn tại thế, ở nước Ấn-Độ. Ðến khi Phật giáo truyền vào nước ta, kết hợp với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam, Vu-lan đã trở thành một ngày lễ mang đầy tính cách thiêng liêng. Do thế, ngày nay Ðại lễ Vu lan không còn là ngày lễ riêng của người Phật tử, mà đã trở thành ngày truyền thống chung cho cả dân tộc. Bởi vì, tất cả mọi người có mặt trên cõi đời này, từ một em bé thơ ngây đến những cụ già đầu bạc, từ một người dân bình thường cho đến các bậc cao sang quyền quí, không một ai là không do cha mẹ sinh thành, không một ai là không do cha mẹ dưỡng nuôi chăm sóc từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành–ngoại trừ một số ít người bất hạnh. Chính nhờ cha mẹ mà ta mới có hình hài này, và nhờ có hình hài này ta mới chu toàn được nghĩa vụ của một người công dân lương thiện, hầu đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một xã hội công bằng văn minhthịnh vượng

Như vậy, Hiếu đạo hiển nhiên là một đạo lý nghìn đời của những dân tộc văn minh, mà dân tộc ta từng tự hào là một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Do thế, trong quá khứ, các nhà đạo đức của nước ta đã có công sưu tập những mẩu chuyện hiếu thảo của tiền nhân gom thành 20 sự tích, viết thành một quyển sách lấy tên là Hai Mưoi Gương Hiếu, nghĩa là 20 tấm gương hiếu thảo. Nội dung tập sách này dùng để giáo dục mọi người giữ gìn hiếu đạo. Mà trong đó các tấm gương hiếu thào của vua Trần Anh Tông đối với Phụ hoàng, vua Tự Ðức đối với Mẫu hậu là tiêu biểu hơn hết. Những tấm gưong này lâu nay đã được lưu truyền trong dân chúng và cũng từng được nhiều người ngưỡng mộ noi theo, dù chưa được phổ cập rộng rãi. Có điều, chúng ta phải công bằng mà nhìn nhận rằng trải qua hàng nghìn năm dân tộc ta từng chung sống và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa không ít. Thế nên, từ bao đời, chúng ta đã hiểu thế nào là Tam cương, ngũ thường, thế nào là Tam tùng, Tứ đức, thế nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, thế nào là Phụ từ tử hiếu, Phu xuớng phụ tùy v.v. . . Khi nói về Ðạo hiếu thì chúng ta nhớ đến một câu nói trong kinh Thi Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực (Cha sinh ra ta, mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, khác nào như trời cao khôn cùng) như một lời tuyên ngôn về Hiếu đạo. Còn khi đề cập đến công ơn từ mẫu thì đã có công thức chín chữ Cù lao Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (nuôi cho bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (xem tính tình mà bảo ban), phúc (bảo vệ). Ðồng thời các nhà luân lý Trung Hoa cũng sưu tập các gương hiếu thảo cổ kim viết thành một quyển sách gọi là Nhị thập tứ hiếu (24 tấm gương hiếu thảo). Mà trong đó có những tấm gương tiêu biểu như vua Hán Linh Ðế đích thân sắc thuốc dâng cho mẹ, mỗi khi Mẫu hậu ốm đau. Ðinh Lăng khắc tượng cha mẹ để thờ, và hằng bữa dâng cơm nước lên hai đấng sinh thành như lúc song thân còn sống. Còn Mạnh Tông thì khóc măng, Quách Cự chôn con, Vương Tường nằm giá v.v..., toàn là những tấm gương hiếu thảo rất gây ấn tượngxúc động lòng người . Nhưng đặc biệt nhất là đức Khổng Tử đã đề xuất cách báo hiếu rất minh bạch và sâu sắc. Ngài bảo rằng bổn phận làm con không những cung phụng cho cha mẹ những tiện nghi vật chất mà điều cần thiết là phải thể hiện tình cảm chân thành, thương yêu cha mẹ hết lòng. Ngài nói: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ cung kính, nuôi duỡng cha mẹ phải hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải rất mực trang nghiêm) (Minh Tâm Bảo Giám). 

Ðó là những nguyên tắc báo hiếu rất thấu đáo và thiết thực. Có thể nói, từ ngàn xưa dân tộc ta đã thấm nhuần những chuẩn mực đạo đức rất nhân bản và thấm đượm tình người. Nhờ đó, tạo tiền đề cho một nếp sống lấy nhân nghĩa làm gốc, theo tinh thần ơn đền nghĩa trả, ăn quả nhớ người trồng cây, xem tiền tài như tro bụi, trọng nhân nghiã tựa nghìn vàng. Chính nhờ tuân thủ những đạo lý này mà nhân dân ta có một nếp sống thuần lương đức hạnh, duy trì được tôn ty trong gia đình, ổn định được trật tự ngoài xã hội, giữ gìn kỷ cương của đất nước, tạo nên một nét nhân văn rất đặc sắc

Về mặt thế thườngthực tiễn thì những cách báo hiếu như vừa trình bày trên đây thật sự tỏ rahiệu quả và khá tốt đẹp; điều đó không một ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu hiểu báo hiếu theo nghĩa rốt ráo, vừa vật chất, vừa tinh thần, xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai, thì có lẽ chỉ có Phật giáo mới giới thiệu một mô hình báo hiếu tương đối hoàn thiện, như tấm gương báo hiếu của tôn giả Mục-kiền-liên mà kinh Vu-lan-bồn đã đề cập. 

Kinh này trình bày sự kiện tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy thỉnh cầu chư Tăng mười phương chú nguyện cầu siêu độ cho mẹ mình vào dịp Rằm tháng Bảy, ngày chúng Tăng Tự tứ. Và nhờ sức chú nguyện của Tăng chúng mà bà Thanh Ðề đã thoát khỏi cảnh ngạ quỉ, sinh về thiên giới. Qua sự tích này, chúng ta có thể khởi lên một vài thắc mắc và xin được mạo muội giải trình: 

Thứ nhất, kinh Vu-lan-bồn được biết là do chính Phật tuyên thuyết tại Ấn Ðộ, rồi truyền sang Trung Hoa, sau đó đến nước ta, trải qua thời gian khá lâu. Trong đó, có thể có một vài chi tiết bị thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn là bắt nguồn từ một câu chuyện có thật, mang tính khái quát về phương pháp báo hiếu cha mẹ theo tinh thần Phật dạy. Mà đức Phật vốn là bậc: “Chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” (Người nói đúng đắn, nói chắc chắn, nói như thật, nói không hư dối, nói không mâu thuẫn). [kinh Kim Cương]. Hoặc như lời phát biểu của tôn giả A-nậu-lâu-đà trong kinh Di Giáo: “Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng chân lýThế Tôn dạy thì không thể nào làm cho khác được”. Ðức Phật lại là bậc Vô Thượng Chánh GiácNgũ nhãn, Lục thông. Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn. Nhục nhãn là cái thấy của những người thường như chúng ta, Thiên nhãn là cái thấy của chư Thiên, Tuệ nhãn là cái thấy của hàng Nhị thừa, Pháp nhan là cái thấy của các vị Bồ tát, và Phật nhãn là cái thấy của chư Phật. Mà Phật có đủ Ngũ nhãn nên Ngài thấy được quy luật nhân quả tường tận, không những thấy được những sự việc hiện tại mà còn thấy cả những sự kiện thuộc quá khứvị lai. Không những thấy được những sự vật hữu hình mà còn thấy cả những sự vật vô hình. Về không gian thì Ngài thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới
Về thời gian thì Ngài thấy suốt từ vô thỉ cho đến vô chung. Thế còn cái thấy của chúng ta thì dựa trên cơ sở nhục nhãn của một tâm trí còn đầy ắp vô minh cát bụi. Cho nên tầm nhìn của chúng ta còn rất nhiều hạn chế là lẽ đương nhiên. Vì vậy, chúng ta không nên đem cái thấy biết hạn cuộc của mình ra làm chuẩn mực để đo đạc tri kiến của Phật, rồi sinh tâm hoài nghi những điều Phật dạy. Huống nữa, đức Phật đã từng tuyên bố: “Như Lai vì lòng thương đời, vì hạnh phúc của chư Thiênnhân loại nên thị hiện trong cỡi đời này”. Qua đó có lẽ chúng ta đã lãnh hội đưọc phần nào hoài bão của Phật qua những lời kinh còn truyền lại. 

Một điểm thắc mắc nữa là có chắc chư Tăng đủ đạo lực hóa giải được tội báo của bà Thanh Ðề hay không?–Thiển nghĩ, việc này thật khó trả lời. Vì nó quá huyền nhiệm. Nhưng có lẽ ai có tu thì mới biết được giá trị của sự tu hành là như thế nào, giống như nguời uống nước lạnh hay nóng chỉ có mình mới rõ. Tuy thế, chúng ta thường nghe trong nhân gian người ta từng nói: “Chúng đức như hải”, nghĩa là đức độ của chúng tăng bao la như biển cả. Hay, “Ðạo cao long hổ phục, đức trọng quỉ thần kinh” (Những bậc đạo hạnh cao siêu thì cọp rồng đều nép phục, và những vị có đức độ sâu dày thì quỉ thần đều kiêng nể). Và trong kinh Pháp Cú cũng minh họa hình ảnh của một bậc A-la-hán đã hoàn toàn giái thoát 

Thành thị hay xóm làng, 
Thung lũng hay đồi cao, 
La-hán trú chỗ nào, 
Nơi ấy được an lạc

Ngoài ra, cổ đức cũng từng mô tả về chân dung của một bậc thiện nhân cao khiết: “Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất” (Cùng sống chung với bậc hiền thiện như vào trong ngôi nhà được chất đầy những đóa hoa lan). 

Ðó là đôi nét về hành trạng của những bậc Thánh thiện, giải thoát. Chúng ta vẫn biết rằng trong số chư Tăng mà Mục-liên thỉnh cầu chú nguyện cho thân mẫu của mình không phải ai cũng đã đắc đạo, nhưng có điều chắc chắn là trong đó có nhiều người đã thành tựu đạo nghiệp đến một mức độ nhất định, cũng như không ít người suốt đời tâm nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành. Với những người có đức độ như vậy huớng tâm lực nguyện cầu cho bà Thanh Ðề, ắt hẳn tâm bà sẽ chuyển biến từ ác niệm sang thiện niệm. Mà niệm ác thì chuốc lấy quả khổ, còn niệm thiện thì hưởng được phước lành. Vì tam giới do tâm tạo. Tâm giống như một họa sĩ có thể vẽ nên địa ngục mà cũng có thể tạo ra thiên đường. Cho nên: “Tiền tâm tác ác như vân phú nhật, hậu tâm khởi thiện như cự tiêu ám” (Tâm trước làm ác như đám mây che khuất mặt trời, tâm sau khởi thiện như ngọn đuốc xua tan bóng tối) [Kinh Luật Dị Tướng]. Khi tâm bà Thanh Ðề đã chuyển hướng, kết hợp với mãnh lực chú nguyện của các bậc Thánh Tăng giàu lòng từ mẫn, thiết nghĩ, bà được giải thoảt khỏi cảnh u đồ, sinh lên thiên giới là điều có thể hiểu được. Trái lại giả sử tâmbà vẫn giữ ác niệm trước sau như một, thì dù cho với đạo lực từ bi cao cả như chư Phật, chung cục cũng không thể nào cứu vớt được bà. 

Qua sự kiện này nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chết chưa phải là hết mà vẫn còn diễn tiến liên tục qua nhiều đời sống khác. Mọi người sống trên thế gian này, nếu như chưa chứng được Thánh quả, giải thoát khỏi khổ đau, đạt đến Niết-bàn vĩnh cửu, thì còn bị định luật sinh tử luân hồi chi phối, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, sinh tử, tử sinh bất tận; hễ làm phước thì hưởng quả vui, gây ác thì chuốc khổ báo. Tất cả loài hữu tình đều phải chịu trách nhiệm về ba nghiệp do mình tạo ra. Thế nên, trong hiện tại phải nỗ lực vun bồi công đức, gây tạo phước lành, tránh xa việc ác để mai sau được mãi mãi thăng tiến trên con đường Thánh thiện

Như vậy là chúng ta đã có thể tin tưởng được luật nhân quả gieo nhân nào gặt quả nấy. Thế nhưng, dựa vào niềm tin này có người sẽ nêu lên câu hỏi: “Cha mẹ tôi lúc sinh tiền làm nhiều việc phước thiện nên sau khi chết, nếu như không thành bậc Thánh thì cũng được sinh lên cõi trời hưởng mọi phước lạc, chứ đâu có đọa vào ngạ quỉ khổ sở như bà Thanh Ðề mà phải gây tạo công đức, cầu thỉnh chư Tăng cứu độ?” 

Qua thắc mắc này, người viết xin được trao đổi như sau: Chúng ta từng nghe Phật dạy: “Hà nhân vô quá, hà giả vô khiên” (Ai mà không có lỗi, ai mà không có tội); cho nên, ngoại trừ các bậc Thánh đã đoạn trừ hết ba độc, còn tuyệt đại đa số chúng ta đang sống trong cõi đời này thì mấy ai dám cho là mình không gây ra ít nhiều lầm lỗi. Mà đã có lỗi thì sau khi qua đời thường bị đọa lạc, mà đã đọa lạc thì rất cần đến thân nhân làm phước hồi hướng để cứu vớt cho mình, đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu như cha mẹ ta đều được giải thoát, không còn đọa lạc, thì những công đức mà mình đã tạo ra để hồi hướng cho họ vẫn còn nguyên vẹn chứ không hề suy suyển chút nào. Những công đức ấy giống như một thứ ngân khoản mà mình ký gởi vào ngân hàng–một loại ngân hàng bất hoại, vĩnh cửu, không có bất cứ một thứ gì có thể phá huỷ được–hễ khi nào cần đến thì mình lấy ra sử dụng. Hơn nữa, hành vi báo hiếu của mình không những có kết quả ở tương lai mà có kết quả ngay trong hiện tại. Vì lẽ, khi ta thực hiện một nghĩa cử cao đẹp, làm một việc hợp với đạo lý thì tâm hồn ta cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản, mà những người xung quanh cũng nhìn ta với đôi mắt ái mộ và đầy thiện cảm. Nhờ đó, khi cần tham gia một việc công ích nào thì nhân cách của mình được mọi người tín nhiệm, lời nói của mình được mọi người tin tưởng. Thiết nghĩ, sống trên cuộc đời nầy mà được tha nhân mến mộ, tin cậy, thì quả thật là một phần thưởng cực kỳ cao quí. 

Một điểm đặc biệt khác là trong thế gian này, có thể có những người không hiếu thảo với cha mẹ, nhưng không một ai là không mong muốn con cháu hiếu thảo với mình. Mà muốn cho con cháu có lòng hiếu thảo thì không có cách nào hữu hiệu hơn là chính bản thân mình phải làm gương tốt. Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình; do thế, ta có quyền hy vọng chúng sẽ noi theo gương mình mà chu toàn hiếu đạo. Ðiều này các bậc tiền bối đã từng lý giải: 

“Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, 
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi. 
Bất tín đàn khán thiềm đầu thủy, 
Ðiểm điểm trích trích bất sai di” 
(Nếu mình hiếu với mẹ cha, 
Mai sau con hiếu với ta khác gì. 
Nếu mình ăn ở vô nghì, 
Ðừng mong con thảo làm gì uổng công
Kìa xem giọt nước xuôi dòng
Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi)

Hiện nay các phương tiện truyền thanh, truyền hình giới thiệu những loại hình nghệ thuật những phim ảnh rất đa dạng. Tuy nhằm mục đích giải trí và làm phong phú kiến thức của công chúng về những chân trời mới, trong đó tiềm tàng những gương sáng, cách giáo dục đạo đức hiếu thuận; nhưng thị trường điện ảnh, sách báo còn lọt không ít những loại phim ảnh sách báo chứa đựng khá nhiều độc tố. Ðối với người lớn, vì phần đông đã được trang bi bằng những vốn liếng văn hóa truyền thống, đã từng trải nghiệm cuộc đời, nên khi thưởng thức các loại hình ấy biết cách gạn đục khơi trong, tiếp thu những phương diện tích cực, loại bỏ những khía cạnh tiêu cực; do đó, tương đối ít nguy hiểm. Thế nhưng, đối với giới trẻ là những người đang dồi dào sinh lực, thường có khuynh hướng phiêu lưu mạo hiểm, bản thân lại chưa thấm nhuần đạo đức truyền thống, chưa trải qua kinh nghiệm trường đời, cho nên khi thuởng thức những loại hình nghệ thuật ngoại lai, không những họ tiếp thu nét tinh hoa của chúng mà cùng lúc hấp thụ luôn cả những độc tố. Những độc tố ấy đến khi phát tác sê làm cho thể xác tàn tạ, tâm hồn băng hoại, đưa đến gia đình tan rã, xã hội rối loạn, và đất nước bất ổn. Vì vậy, thiết nghĩ các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục cần phải hết sức cảnh giác đề phòng, và giới chức có thẩm quyền cần phải quan tâm nhiều hơn nữa gạn lọc những độc tố tiềm tàng trong các loại phim ảnh ngoại lai, chọn lựa cẩn thận những loại hình nghệ thuật đứng đắn, trước khi cho trình chiếu. Có như vậy, may ra mới tránh bớt những hậu quả đáng tiếc mà lâu nay báo chí đă phản ảnh khá nhiều. 

Thế còn các loại hình nghệ thuật và những mô thức giáo dục truyền thống thì sao? Thiển nghĩ, các loại hình này đã trải qua nhiều đời, các bậc hiền nhân thánh triết của ta đã tốn nhiều công sức gạn lọc, loại bỏ những nhược điềm và tô bồi những ưu điểm. Do thế, những mô hình ấy tương đối bảo đảm tính an toàn; nếu như không làm thăng hoa phẩm hạnh của con người đến đích chân thiện mỹ, thì cũng không đến nỗi gây ra những tác hại nghiêm trọng

Thiết nghĩ, dịp lễ Vu-lan báo hiếu cũng là một cơ hội tốt đẹp để cho những người con Phật chu toàn hiếu đạo dối với tứ thân phụ mẫu, với cửu huyền thất tổ và những thân nhân quá cố. Mà làm tròn đạo nghĩa cao đẹp của một con người cũng là phương thức khẳng định nhân cách của một công dân lương thiện, trong một đất nước có truyền thống văn minh. Xin thành tâm kính chúc quí vị, ai nấy đều là những dâu hiền, con thảo, bản thân được nhiều an lạc, gia đình tràn đầy hạnh phúc, trong mùa báo hiếu Vu-lan.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13519)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14096)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10290)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10758)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11291)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11248)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11410)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10145)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9945)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10682)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11307)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10464)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11841)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9998)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10445)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10592)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45700)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32082)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10669)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11284)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10606)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13447)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12358)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11011)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10597)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12282)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11131)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11815)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29224)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9195)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10522)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10204)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10546)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10890)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10789)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11842)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12238)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10427)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11685)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10406)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10751)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10123)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10248)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10624)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10756)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11210)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10379)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10680)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11457)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18224)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10499)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12825)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11737)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29130)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28260)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13299)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22754)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13422)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11546)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13786)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26037)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22271)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14466)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12048)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11784)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11678)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11463)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33145)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12005)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39592)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11948)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14202)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13340)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14295)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12040)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10385)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11213)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13282)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34480)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12594)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12206)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13521)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12600)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12946)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16279)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11708)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28373)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13380)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant