THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 2
LỜI
NÓI ĐẦU
Tập
II Thiền sư Trung Hoa này, chúng tôi chú mục vào Ngũ gia Tông
phái. Muốn độc giả thấy rõ sự kế thừa của năm Tông
phái, chúng tôi soạn dịch những vị có trọng trách trong
việc truyền bá sau này, với những vị tuy không quan trọng
mà vẫn có mặt trong việc kế thừa của tông phái ấy. Còn
lắm vị có nhiều đặc sắc, nhưng không phải nằm trong hai
điều kiện trên chúng tôi lược bớt.
Sử
chư Thiền đức ở Trung hoa còn quá nhiều, song chúng tôi chỉ
soạn dịch đến đây tạm ngưng. Thấy rằng độc giả cần
tìm hiểu đạo lý thâm sâu và những gương cao đẹp, qua bấy
nhiêu vị ấy cũng đã đủ lắm rồi. Nếu cố dịch nhiều
thêm nữa, chỉ có thêm người thêm lời, chớ đạo lý cũng
không có gì khác lạ. Cốt chúng ta lãnh hội được thâm lý
qua lời nói hành động của các ngài, không phải cần đọc
nhiều để thêm kiến giải.
Sở
nguyện chúng tôi soạn dịch các tập sử này nhằm vào những
người đang tu thiền mà không biết nguồn gốc manh mối thiền
thế nào, và những người ngưỡng mộ Thiền tông mà không
đủ phương tiện tham khảo. Chớ chúng tôi không cung ứng
theo xu hướng những người đọc sách thiền để tỏ ra mình
là trí thức.
Chúng
tôi được biết hiện thời là phong trào giới trí thức trẻ
tuổi tìm hiểu thiền. Bởi muốn tìm hiểu thiền nên quyển
sách nào nói về thiền mà dễ hiểu thì độc giả đông nhất.
Song những quyển sách chúng tôi soạn dịch đây thật là cô
đọng khô khan, hẳn độc giả không hài lòng và sẽ ít người
mó tới. Biết trước số phận của nó là thế, nhưng chúng
tôi vẫn giữ nguyên lập trường cũ không đổi thay. Bởi
vì Thiền là một phương pháp tu cao tột, những kẻ căn cơ
chậm lụt, ý chí yếu kém khó mà tu nổi. Nên chi, chư Tổ
dùng lời khó khăn để lọc lựa người.
Chư
Tổ đã biết chúng sanh có bệnh khinh thường, hèn nhát và
dễ chán. Dù một vật quí vô giá mà trao cho họ một cách
dễ dàng, họ sẽ khinh thường, đã khinh thường thì dễ quên
mất. Cho nên các ngài khéo dùng những lời lẽ bí yếu, những
hành động lạ thường, khiến người lãnh nhận những lời
ấy phải chết sống với nó năm mười năm rồi sẽ ngộ.
Một khi ngộ, suốt đời không lúc nào quên lãng. Đó là một
đặc điểm trong Thiền tông.
Thiền
tông cốt dạy người làm Tổ làm Phật, chớ không phải chỉ
dạy tu phước đức cõi người cõi trời. Làm Tổ làm Phật
đâu phải là việc dung dị. Cho nên, người bước vào cửa
thiền phải là sư tử con phải gầm phải hét, không phải
như những con nai tơ nhút nhát kia. Vì thế, một Thiền sinh
khi ngộ đạo thường có những hành động xem như ngang ngược
đối với bậc thầy. Nhưng với con mắt Thiền sư thấy thế
rất hài lòng, biết đệ tử mình đã thoát khỏi vòng khuôn
sáo, tập quán.
Con
đường làm Tổ, làm Phật xa diệu vợi và đầy gian nguy,
nếu con người dễ chán làm sao tiến đến mục đích cứu
kính. Vì thế, cần có những con người sắt đá, dù thân
nát mà chí không mòn, mới đủ tư cách đảm đang trọng trách
này. Phải vượt khỏi đầu sào trăm trượng, phải buông
tay đi trên vực thẳm đó là lời thường nhắc của các Thiền
sư.
Như
thế, những câu nói điếc tai của các ngài không phải không
chỗ nhằm. Nếu chúng ta cố giải thích cho nó dễ hiểu, đâu
không phản bội lại các ngài. Nhiều vị Đại đức tăng
hiện tại thường nói: “người tu thiền dễ rơi vào chấp
không”. Câu nói này, đứng về phương diện cảnh tỉnh thì
quí giá, đứng về phương diện chân thật thì sai lầm. Vì
Thiền là phá chấp, còn chấp không làm sao gọi là hội thiền,
đã không hội thì lấy gì mà tu. Như thế, nói người tu thiền
chấp không thật không thể có.
Tuy
nhiên, vẫn có một số người không hội được thâm lý của
thiền, chỉ nói thiền qua ngôn ngữ rồi sanh bệnh cố chấp.
Như hiện tại có một số thanh niên trí thức đọc sách thiền
thấy nói “không có thiện không có ác”, liền chấp rằng
mọi hành động đều không. Họ không hiểu Thiền nói “không
thiện không ác” là cố phá chấp có hai, tương đối. Bởi
vì mầm gốc sanh tử luân hồi là tâm yêu ghét. Còn khen ngợi
thiện là yêu thiện, còn mạt sát ác là ghét ác. Yêu ghét
còn làm sao giải thoát sanh tử. Hơn nữa, yêu mà xa thì khổ,
ghét mà gặp cũng khổ. Thế thì tu đến bao giờ mới hết
khổ? Cho nên, khi nói không thiện không ác là lúc tâm đã
bình đẳng như như. Tuy nói không thiện mà lúc nào cũng làm
tất cả việc lành. Tuy nói không ác mà lúc nào cũng xa lìa
tất cả tội lỗi. Đó là tư cách của người đạt được
lý thiền. Khổ thay! hiện tại người ta không hiểu như thế,
nói không thiện không ác để rồi ăn xổi ở thì, hay thậm
tệ hơn là làm tất cả việc ác.
Hoặc
đọc sách thiền thấy các Thiền đức nói “đói thì ăn,
mệt thì ngủ” họ mặc tình buông lung theo bản năng, ưng
nói thì nói ưng làm thì làm, không cần biết phải quấy tốt
xấu. Đó là hạng người sa đọa tột độ, mượn lời nói
của thiền để nuôi dưỡng những tham vọng điên cuồng của
họ. Khi các Thiền đức nói “đói thì ăn mệt thì ngủ”
là tâm các ngài đã sạch vọïng tưởng, mọi hành động
đều hợp với đạo. Như nước đã lọc sạch rồi thì san
sớt cách nào cũng là nước trong. Tâm đã thanh tịnh thì mọi
hành động đều là diệu dụng.
Thiền
cốt dạy tu chớ không phải lý thuyết suông. Thế nên, các
vị Thiền sư sau khi hội thiền, liền lên núi vào rừng ở
năm năm mười năm có khi hai ba mươi năm. Do sự luyện lọc
ấy mới gột sạch hết vọng tưởng, tâm thể như như, tự
tại trong việc sanh tử. Cốt tủy của đạo Phật là giác
ngộ nguồn gốc sanh tử và giải thoát chúng. Thiền sư đã
thực hiện được điều đó trong đời sống hiện tại. Ưng
sống các ngài sống, ưng chết các ngài chết. Đó là bằng
chứng cụ thể nói lên sự trung thực của Thiền đối
với đạo Phật.
Thiền
dạy người tu một cách thực tế, tìm lại “bản lai diện
mục” của mình. Bởi quá thực tế nên người ta không hiểu
nổi, con người là hướng ngoại, con người là cầu xin, con
người là ỷ lại. Ở đây Thiền đập tan ba tánh ươn hèn
ấy. Ba tánh ấy đã chôn vùi chúng ta từ vô lượng kiếp.
Chúng ta phải cương quyết quả cảm đập nát chúng, để
rồi chúng ta tìm lại cái mặt thật của chúng ta. Chúng ta
là chủ nhân ông của chúng ta từ vô lượng kiếp. Chúng ta
phải khôi phục lại quyền năng của ông chủ bản hữu nơi
chính mình. Đó là chúng ta tu thiền.
Tu
thiền là vượt qua những thành quách tập quán, ngôn ngữ,
văn tự. Bởi vì những cái ấy đều do vọng tưởng của
người đặt ra. Còn mắc kẹt trong ấy là chúng ta còn làm
tôi đòi của vọng tưởng, sẽ bị nó lôi chúng ta vào vòng
sanh tử liên miên. Dù là những ngôn ngữ văn tự diễn đạt
chân lý đi nữa, nó cũng chỉ là chân lý chết. Chúng ta phải
sống với chân lý linh hoạt hiện hữu nơi chúng ta. Chân lý
ấy không cho phép chúng ta mắc kẹt bất cứ cái gì bên ngoài,
dù là tập quán của ngàn xưa. Còn mắc kẹt là còn chấp,
còn chấp thì không đạt được chân lý viên mãn. Như còn
mây che thì không thấy được ánh sáng toàn vẹn của mặt
trăng, dù một áng mây mỏng ánh sáng cũng vẫn bị mờ.
Đạo
lý thiền là đạo lý tu chứng. Có tu chứng mới gọi là thiền,
không tu chứng mà nói thiền, ấy gọi là “khẩu đầu
thiền”, thiền ngoài môi. Tuy nhiên, tu chứng mà không có
tướng tu chứng. Còn thấy có tướng tu chứng thì gọi là
bệnh, chớ chẳng phải thiền. Có lắm người nghe nói tu thiền
liền hỏi đã chứng gì chưa, thế là không hiểu gì về thiền.
Người tu thiền mà khoe mình chứng quả này quả nọ, ấy
là ma chớ không phải Thiền sư. Thiền sư là những người
thâm trầm, tám gió thổi không lay, tự tại trước ngưỡng
cửa sanh tử.
Mong
khi đọc những tập sử của chúng tôi soạn dịch, độc giả
sẽ phát minh được “bản lai diện mục” của chính mình.
Bằng chưa phát minh được, độc giả hãy bám vào một câu
nào không hiểu để sống chết với nó, một ngày kia sẽ
phát minh được.
Kính
ghi
THÍCH
THANH TỪ
Tu
viện CHÂN KHÔNG, Đầu mùa đông 1972
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.