Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

29 Tháng Chín 201100:00(Xem: 14815)
Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÌNH TƯỢNG
KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG và ĐÀN THÀNH
trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương là một trong những đàn thành nổi tiếng linh hiển nhất của Đông Mật, được rất nhiều Triều Đình và dân chúng các nước Đông Phương dùng vào trong các pháp hội đàn tràng Hộ Quốc, tiêu tai, cầu mưa, trừ ôn dịch, cầu bình an tăng phước thọ, tiêu bịnh tật.v.v...

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương có nguồn gốc từ Mật Giáo Ấn Độ, Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú được truyền vào rất sớm ở phương Đông. Đến đời Đường, Mật Giáo thịnh hành, Ngài Bất Không Tam Tạng dịch bộ “Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ”, và từ đây đàn thành của Mật Giáo tu trì Khổng Tước Minh Vương được thiết lập.

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội, còn là nơi tu trì của các hành giả Mật Giáo, hành giả trụ trong đàn thành, trì tụng thần chú “Khổng Tước Minh Vương” và được sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, Thiên chúng trong đàn thành, nhân đó hành giảthể đạt được đại tự tại tâm, thành tựu hết thảy nguyện lực, thành tựu đạo Bồ Đề, để phổ độ chúng sanh.

Hành giả Tu Pháp Khổng Tước Minh Vương, có thể nương vào pháp lực của Khổng Tước Mimh Vương ứng hiện trong đàn thành, thể nhập vào Tam thân, tu pháp xuất thế gian, diệt trừ tham, sân, si, mạn, nghi trong tự tâm của chính mình, đạt đến đại an lạc, không còn bị các nghiệp chướng phiền não làm tổn hại nữa, từ đó chứng được viên mãn trí huệ, giác ngộ, từ bi và nhanh chóng đạt đến quả vị Vô thượng Bồ đề.

Trong các pháp hội đàn thành, tu trì quyền đảnh của Mật Giáo, tùy theo tôn tượng được tôn trí trong đàn thành, để theo nghi quỹ mật pháp của Bổn Tôn mà tu trì, nếu như trong đàn thành, tôn thánh tượng Khổng Tước Minh Vương làm đàn chủ, thì phải quy y theo pháp của Ngài để tu trì, vậy nên pháp của đàn thành này, được xưng là Khổng Tước Minh Vương Kinh Pháp hoặc là Khổng Tước Kinh Pháp, còn đàn thành được gọi là Khổng Tước Minh Vương Đàn Thành, đây là một trong tứ đại Pháp và Đàn Thành của Mật Giáo.

Khổng Tước Minh Vương, tiếng Phạm xưng là Maha-mayura-vidi-rajni, phiên âm là Ma Ha Ma Du Lợi Du La Diêm, dịch là Phật Mẫu Khổng Tước Minh Vương. Theo truyền thuyết Khổng Tước Minh Vương là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na và Đức Phât Thích Ca, là hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Mật Giáo tôn xưng là Kim Cang Phật Mẫu hoặc là Hộ Thế Kim Cang.

Căn cứ theo Kinh Khổng Tước Minh Vương chép: “Một thuở nọ, Đức Phật tại thế, có một vị Tỳ Kheo bị rắn độc cắn, đau đớn không thể chịu được. Bấy giờ ngài A Nan đem việc này bạch với Phật. Phật bèn nói một câu thần chú, có thể trừ diệt những sự đau khổ chướng ngại, quỷ mị, độc hại, ác tật… bài chú này là Khổng Tước Minh Vương Chú”. 

Ngoài ra trong Kinh còn chép về chuyện Đức Phật dạy về tiền kiếp của Ngài khi hành Bồ Tát đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước: “vào thời rất xa xưa ở trong núi tuyết có con chim Khổng Tước lông màu vàng kim, thường ngày thanh tịnh trì tụng bài chú này rất là siêng năng tinh tấn, vì vậy luôn luôn được thần chú bảo hộ bình yên an ổn, không ai có thể săn bắt nó được.

Một hôm Khổng Tướctham mê ái dục, cùng với rất nhiều con chim khổng tước mái đi dạo chơi ở một khu rừng núi rất xa, mãi vui chơi nên Khổng Tước quên mất trì chú, vì vậy mà bị thợ săn bắt được, lúc bị bắthồi phục được chánh niệm, liền trì tụng thần chú, cuối cùng thì thoát khỏi được sự vây bắt của thợ săn, được tự do bay về núi của mình...”. Đây là điển tích do Đức Phật khai thị để cho chúng ta biết sự có mặt của Khổng Tước Minh Vươngthần chú Khổng Tước Minh Vương Đà La Ni.

blank

Khổng Tước Minh Vương được dự vào hàng đại thánh của Mật Giáo, có rất nhiều truyền thuyết. Chuyện xưa kể rằng, Khổng Tước Minh Vương vốn là con Khổng Tước đầu tiên của thời khai thiên lập địa, qua suốt mấy ngàn năm ngày đêm tu hành khổ luyện thành tựu phép Ngũ sắc thần quang, sau đó được Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát hóa độ, Khổng Tước phát nguyện theo Bồ Tát Chuẩn Đề tu hành và làm bảo tọa cho Ngài ngồi, để đền đáp công ơn hóa độ.

Khổng Tước Minh Vương được xưng là Phật Mẫu, Truyền thuyết Mật Giáo kể rằng, khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, Khổng Tước nuốt Đức Phật vào trong bụng, sau đó lưng của Khổng Tước Minh Vương nứt ra, Đức Phật Thích Ca hiện ra ngồi trên lưng của Khổng Tước, vết nứt liền lại, vì vậy Khổng Tước được xưng là Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát.

Bảo tướng của Khổng Tước Minh Minh Vương trong Mật Giáo, thường hiện thân một vị Bồ Tát có bốn tay, ngồi trên lưng của con chim Khổng Tước (con Công) vì vậy nên gọi là Khổng Tước Minh Vương, gọi đủ theo Minh Vương bộ của Mật GiáoPhật Mẫu Đại Kim Cang Diệu Khổng Tước Minh Vương.

Hình Tượng của Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, trong bốn tay của Bồ Tát có trì bốn pháp bảo gồm có, Liên hoa, Cụ duyên quả, Cát tường quả, Lông chim Khổng Tước. “Liên hoa” tượng trưng cho kính ái, “Cụ duyên quả” tượng trưng cho sự điều phục, “Cát tường quả” tượng trưng cho sự tăng ích lợi, “lông chim Khổng Tước” tượng trưng cho sự trừ tai ách, diệt khổ nạn.

Tượng Bồ Tát Khổng Tước còn một thân tướng nữa, thường được tôn trí trong Đàn thành Thai Tạng Giáo, Mạn Đà La. Trong Đàn Thành Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, nên nhiếp thọcụ túc hai đức từ bitrí tuệ, Tôn tượng Bồ Tát thường ngồi trên hai loại tòa hoa sen, nếu là ngồi trên hoa sen trắng tức biểu thị cho cho sự nhiếp thu bổn thệ từ bi, ngồi trên hoa sen xanh, là biểu thị ý tướng hàng phục.

Trong Tô Tất Địa Viện của Thai Tạng Giới Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương là vị Bồ Tát thứ 6, hình tướng của Bồ Tát trong nội viện này, thân chỉ có hai tay, trì liên hoa và lông chim Khổng Tước, ngồi hoa sen màu đỏ, xưng là Phật Mẫu Kim Cang Tam Muội Da Hình Khổng Tước Vũ. 

Kinh điển nói về Khổng Tước Minh Vương, hiện nay trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có lưu tạng “Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú” gồm có 6 bộ.

1. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: một quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập dịch

2. Bộ “Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Kinh Chú Kinh”: không có tên người dịch

3. Bộ “Phật Thuyết Đại Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Chú Kinh”: không có tên người dịch

4. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Tăng Dà Bà La dịch có hai quyển.

5. Bộ “Phật Thuyết Đại Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Nghĩa Tịnh dịch có ba quyển.

6. Bộ “Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh”: do ngài Bất Không dịch có ba quyển.

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương được thiết trí theo “Kinh Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ” do Ngài Bất Không Tam Tạng Tổ của Đông Độ Mật Giáo đời Đường dịch. Trong đàn thành gồm có ba Đàn Thành.

Đàn Thành thứ nhất: Nội viện Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Bát diệp liên hoa mạn đà la, Nội viện của Phật Bồ Tát, Bích Chi Phật, Nội Viện của Thanh Văn La Hán. Chư Phật Bồ Tát được an trí trong Đàn thành Khổng Tước Minh Vương gồm có, Thất Phật quá khứ, Bồ Tát Di Lặc, mười hai vị Duyên Giác đại vị cho chư Duyên Giác, 18 vị La Hán đại vị cho chư Thanh Văn, bên dưới chính giữa, an trí tại trung ương đàn thành là bảo tượng Khổng Tước Minh Vương bằng tranh vẽ hay là tượng hoặc giả an trí một chiếc lông Khổng Tước

Đại Khổng Tước Minh Vươngthân tướng lưu lại của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, để độ chúng hữu tình, là thân tướng tối thắng nhất của tất cả các thân tướng, cho nên vị trí đặt ở trung ương, cũng giống như đàn thành Ngũ Phật, Đức Tỳ Lô Giá Na được tôn trí tại Trung ương, trong Đàn Thành này Khổng Tước Minh VươngPháp chủ cho nên vị trí tôn trung ương đàn thành.

Đàn Thành thứ hai gồm có tám phương Thiên Vương và chư quyến thuộc.

1. Đông Phương Đế Thích Thiênchư Thiên chúng vây quanh.

2. Đông Nam phương Hỏa Thiênchư Tiên ngũ thông khổ hạnh vây quanh.

3. Nam phương Diệm ma Thiên Vương và Diêm ma giới, các loài quỷ chúng vây quanh.

4. Tây Nam phương La Sát Vương và chúng quỷ la sát vây quanh.

5. Tây phương Thủy Thiên và các vị Rồng vây quanh.

6. Tây Bắc phương Phong Thiên Vương và chư tiên nhân Trì Minh vây quanh.

7. Bắc phương Đa Văn Thiên Vương cùng các chúng Dạ Xoa vây quanh.

8. Đông Bắc phương Y Xá Na Thiên cùng các bộ đa quỷ chúng vây quanh.

Chư Thiên, chư Tiên, Thiên tướng, thiên cung chư vị thiện thần, vây quanh Đàn Thành. Tám vị Thiên Vương đại vị cho chư Thiên, 28 vị Dạ Xoa đại vị cho chư Thần tướng, Cửu Diệu tinh tọa đại vị Thiên chúng, 12 Cung đại vị cho hết thảy Thiên ty, Thiên sở, nội ngoại Thiên cung. Nếu như không cụ túc các tượng pháp để an trí trong đàn thì cần phải dùng bài vị giấy để ghi tên của tất cả những vị không đủ thần tượng, cũng như chư vị quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương, tôn trí lên đàn như đã quy định, thì đàn thành mới cụ túc phước duyên thần lực.

Đàn Thành thứ ba là vòng thành ngoài cùng của đàn thành từ phía Đông Bắc vòng một vòng theo tay phải, tôn trí tượng 28 vị Dược Xoa Đại Tướng, và các quỉ chúng vây quanh.

Đàn thành tôn trí nhiều tượng Phật, Bồ Tát, Thánh chúngnhân duyên thể hiện tánh của “Chư Phật Hải Hội” để chúng hội quy y Tam Bảo, theo tâm pháp của Mật Giáo, quy y một vị Phật tức là quy y vô lượng chư Phật. Quy y Khổng Tước Minh Vương tức là quy y Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, quy y Đức Phật A Di Đà, quy y Đức Phật Thích Ca, quy y vô lượng Chư Phật.

Đàn thành Khổng Tước Minh Vương là nơi để hành giả làm Pháp quán đảnh, quy y, cho nên phải cụ túc chư Phật, Bồ TátThiên Thần. Pháp hội Khổng Tước Minh Vương gồm có bốn pháp quy y. Pháp thứ nhất quy y Truyền Pháp Thượng Sư, Pháp thứ hai Quy y Phật tức là quy y Đại Khổng Tước Minh Vương Phật. Pháp thứ ba là quy y Kinh Khổng Tước Minh Vương, pháp thứ tư quy y Tăng, quy y hết thảy quyến thuộc Khổng Tước Minh Vương.

Tâm niệm “Sát sát trần trần Hoa Tạng Giới”, nếu như một vị Phật giải chưa hết các định nghiệp, thì công đức của nhiều vị Phật, Bồ tát, Thánh chúng, sẽ hợp thành sức mạnh “Đại quang minh tạng”, thì sẽ không có nghiệp lực, định nghiệp nào mà không thể không tiêu trừ, không thể không giải hết, cũng ví như xưa kia Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên dùng pháp môn cúng dường đại Tăng, nhờ thần lực của đại Tăng cứu mẹ không khác.

blank

Hết thảy thần tướng Thiên vương trong đàn thành đều là hóa thân của Khổng Tước Minh Vương. Bồ Tát nương theo tinh thầnthệ nguyện của Kinh A Di Đà, có đoạn trong Kinh A Di Đà nói về thế giới Cực Lạcvô số các loại chim báu thuyết pháp, trong số các loại thánh điểu do Đức Phật Di Đà biến hóa ra, để nói pháp độ sanh, trong đó có chim Khổng Tước, vì vậy Đức Khổng Tước Minh Vươnghóa thân của Đức Di Đà, cho nên Ngài cụ túc tánh Vô Lượng Quang, Vô Lượng thọ, Vô lượng Công đức, nên Đàn Thành của Ngài cũng là cảnh Giới Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Chính vì vậycông năng và đức lực chuyển hóa hết thảy ác nghiệp, thành tựu hết thảy công đức.

Khổng Tước Minh Vương còn là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong thuở quá khứ, khi Đức Phật hành Bồ Tát Đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước, vậy nên Khổng Tước Minh Vương cụ túc tánh, Thọ dụng thân của Đức Thích Ca, Đức Phật Thích Ca lại là Giáo chủ cõi Ta Bà, vậy nên Khổng Tước Minh Vương rất có duyên với chúng sanhcõi Ta Bà.

Khổng Tước Minh Vương là Lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, là Hóa thân của Đức Phật A Di Đà, lại là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca, cho nên thiết lập Đàn Thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, là tập hợp tương ưng hết thảy oai đức, phước báu, thần lực của ba vị Phật và vô lượng Chư Phật, để làm năng lượng chuyển hóa nghiệp lực, thành tựu hết thảy các thắng duyêncông đức.

Hành giả kiến đàn thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, nên dùng pháp tương ưng của tam thân PhậtPháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, thể nhập dung hòa vào tự tánh của ba nghiệp của chính mình, tạo thành tam oai đức: Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Dùng phước báo, nguyện lực, oai đức của Tam thân chuyển hóa ba nghiệp thành Giới Định Huệ, nhân “Giới” nên Thân thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Định” nên Khẩu thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Huệ” nên Ý thường thanh tịnh chứng Vô thượng đạo. Tam thân cụ túc, Tam mật tương ưng.

Người hành trì nếu có thể tương ưng như vậy, thì tự thân có thể nhập được vào thể tánh của Đại Khổng Tước Minh Vương, cụ túc thần lực gia trì cho tự thân, đồng thời có thể gia trì cho chúng sanh, chuyển hết các nghiệp ác thành đại an lạc, chuyển hết các khổ đau thành đại hoan hỷ, chuyển hết các bịnh khổ thành đại an khang, tất cả các nghiệp lực đều có thể nương đây mà tiêu trừ, tất cả các oan khiên đều từ Đàn Thành này mà được giải kết.

Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Pháp tu và Đàn Thành của Ngài, là Pháp tối thắng nhất đối với các hành giả tu trì Mật Tông, là phương tiện cứu độ, giải trừ tai ách khổ nạn, tứ phước an lạc với tất cả những tín chúng có nhân duyên với Mật Giáo, là cầu nối của Chư Phật, Bồ Tát, Thánh chúng với chúng sanh, là sự thể nhập vi diệu nhất của Tam Thân vào trong Tam mật, của Hóa Thân vào Ứngng Thân, của trần gian vào cỏi Thánh “Diệu Nhập Tam Ma Địa”, nguyện Phật Pháp trường tồn, chúng sanh an lạc, Bồ Tát Khổng Tước Minh Vương trụ thế ứng hiện chân thân, phổ độ chúng hữu tình, miễn tai giải ách, an lạc tự tại, đất nước hưng thạnh, thiên hạ thái bình, phong điều vũ thuận.

Nam mô Đại Khổng Tước Minh Vương Phật Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com - Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31677)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11233)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12761)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10814)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16670)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10823)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22975)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10692)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12342)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10027)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9820)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11278)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10468)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9910)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12022)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10148)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9502)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12563)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10429)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9090)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10564)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10523)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9198)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9022)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14763)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8977)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8745)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14604)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9044)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8785)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10537)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8647)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24290)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9475)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8008)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9274)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10343)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9587)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12170)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19245)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10637)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9538)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18685)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12369)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11891)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10760)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13348)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10004)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9277)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9395)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15907)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant