Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

14 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13856)
Thiền sư trong phòng thí nghiệm

THIỀN SƯ TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM

Matthieu Ricard

blankNhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.

 

Hai mươi năm trước đây hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ của một người trưởng thành không còn có thể thay đổi và không có tế bào não mới nào sinh sản thêm khi não bộ đã trưởng thành. Có thể có những phương pháp tạm thời nhằm tăng cường hay phát động những liên hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, trong khi số lượng tế bào não càng ngày càng suy thoái theo tuổi tác. Những thay đổi não bộ thường xảy ra khi người ta còn ‘trẻ’. Hiện nay có nhiều ý kiến mới và các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ sinh trưởng uyển chuyển (Neuro-plasticity) hơn là chúng ta nghĩ , nghĩa là não bộ tiếp tục biến đổi theo với kinh nghiệm sống và các tế bào não tiếp tục được sinh sản và tăng cường những hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, tăng cường các hoạt động giữa các tế bào hiện có và sinh sản các tế bào mới.

Trong một nghiên cứu, Fred Gage và các đồng nghiệp tại Salt Institute ở bang California, nghiên cứu phản ứng của chuột cho biết là não bộ của chuột sinh sản thêm nhiều tế bào não khi được chuyển qua sống trong một môi trường mới, từ một cái một cái lồng trơ trọi qua một nơi khác có gắn bánh xe cho chuột tập thể dục, có những đường hầm để chuột thám hiểm và có nhiều bạn để chuột chơi đùa. Kết quả thật bất ngờ: chỉ trong vòng 45 ngày, số lượng tế bào não tăng lên trong vùng não thùy hippocampus, nơi lưu trữ các tế bào não được chế biến và xử lý những kinh nghiệm kỳ thú- tăng thêm 15%, ngay cả trong não bộ của các con chuột già!

Điều này có xảy ra cho não bộ người như trong não bộ chuột không? Tại Thụy Điển Peter Ericksson nghiên cứu việc hình thành các tế bào não mới trong các bệnh nhân bị ung thư. Khi các bệnh nhân này qua đời não của họ được giải phẫu cho thấy cũng như trong loại chuột, tế bào não mới đã được tạo ra và tàng trữ khu não Hippocampus.

Các nhà khoa học thần kinh não bộ hiện nay nhận thấy là việc sinh sản các tế bào não suốt đời là một chuyện có thể xảy ra, như Damien Coleman nhận xét trong tác phẩm Destructive Emotions (Những tình cảm độc hại): (Khi chụp não) của các nhạc sĩ chơi vĩ cầm thực tập đàn mỗi ngày trong nhiều năm, một mô thức sinh sản tế bào não uyển chuyển xuất hiện (Neuroplasticity). Các máy chụp não cộng hưởng từ trường MRI cho thấy là, vùng não điều khiển các ngón tay chơi đàn tăng trưởng và các vùng não điều khiển các ngón tay của những người thực tập đàn từ lúc nhỏ cũng thay đổi.

Cũng thế việc nghiên cứu một số vùng não bộ của những người chơi cờ tây (Chess) và các lực sĩ thế vận cũng cho thấy vùng não điều khiển các hoạt động liên hệ cũng thay đổi. Và câu hỏi căn bảnnếu một người tình nguyện thực tập để làm giàu tâm linh bằng thiền quán, các vùng não bộ liên hệtăng trưởng không?

Đó là chính mục tiêu mà nhà khoa học thần kinh não bộ, Richie Davidson, và các đồng nghiệp của ông đang nghiên cứu tại phòng thí nghiệm W.M. Keck về Chụp Hình Não Bộ và Hành vi tại Đại Học Wisconsin- Madison (Hiện nay có tên mới là Phòng thí nghiệm Waisman về Chụp Hình Não Bộ và Hành Vi).

Cuộc gặp gỡ kỳ thú

Các công trình nghiên cứu này khởi đầu từ một nơi cách xa đây một nửa địa cầu, tại chân núi Hy Mã Lạp SơnẤn Độ, trong một ngôi làng nhỏ nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt cơ sở của chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong, sau khi Trung Quốc xua quân vào xâm chiếm vào năm 1959. Vào mùa thu năm 2000, một nhóm các Khoa Học gia hàng đầu về Thần Kinh Não Bộ họp mặt trong 5 ngày và thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma về ảnh hưởng của Thiền trên Não Bộ. Đây là lần họp thứ 10 trong một chuỗi các buổi họp đáng ghi nhớ, giữa các khoa học thần kinh não bộ và Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã được tổ chức từ năm 1985, do viện Tâm và Đời Sống (Mind and Life) bảo trợ, do sáng kiến của nhà khoa học Francisco Varela, một nhà nghiên cứu tiên phong trong khoa học về tri thức.

Đề tài là Tình Cảm Phá Hoại (Destructive Emotions) và tôi (Matthieu Ricard) được giao phó trách nhiệm trình bày quan điểm của Phật Giáo dưới sự giám sát của Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi có cảm tưởng như mình đang bị khảo hạch trong một kỳ thi tại trường. Sau lần gặp gỡ ngoạn mục này, Daniel Coleman kể lại trong Destructive Emotions, một vài chương trình khác được tung ra để về nghiên cứu về phát triển của vùng não của những cá nhân đã thực hành thiền quán lâu hơn 20 năm.

Bốn năm sau đó, vào tháng 11 năm 2004, các tạp chí khoa học có uy tín như Báo Cáo Nghiên Cứu của Viện Khoa Học Quốc Gia (Mỹ) lần đầu công bố những công trình nghiên cứu về tác động của Thiền Quán lên não bộ. Các trình trạng xảy ra trong các giai đoạn thiền quán trước đây thường được diễn đạt qua các kinh nghiệm cá nhân, lúc đó được trình bày bằng ngôn ngữ khoa học.

Hiện nay có 12 thiền sư có nhiều kinh nghiệm, gốc Á Châu và Âu Châu trong truyền thống Tây Tạng (8 người gốc Á và 4 người gốc Âu, tăng sĩ lẫn cư sĩ) đã được Richard Davidson và Antoine Lutz, học trò của nhà khoa học não bộ lừng danh Francisco Varela, cộng tác nghiên cứu. Những thiền sư tham dự cuộc nghiên cứu này ước tính là đã từng thực tập Thiền từ 10 ngàn đến 40 ngàn giờ, từ 15 năm đến 40 năm, được so sánh với như ‘nhóm kiểm soát’, gồm 12 thiền sinh tập sự thuộc các nhóm tuổi khác nhau. Những người trong nhóm này chỉ được dạy và thực hành Thiền trong vòng 1 tuần lễ.

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

blankTôi (Matthieu Ricard) là một người tình nguyện tham dự thí nghiệm đầu tiên (guinea pig). Một thủ tục được chấp nhận, trong đó người thực hành thiền thay đổi qua lại giữa trạng thái đang thiền địnhtrung lập. Trước tiên các trạng thái này đã được thử nghiệm, và có 4 trạng thái được chọn lựa để nghiên cứu: Thiền từ bi, Định (focused attention) chánh niệm (open presence) và quán tưởng hình tượng.

Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, để tâm bị tràn ngập bởi lòng thương lớn, không có giới hạn trên đối tượng đặc biệt nào. Trong khi đó Định đòi hỏi sự chăm chú đến một đối tượng đặc biệt đã được chọn lựa nào đó và dùng như một cái neo, và khi nào tâm đi lạc đường nhảy lung tung, thì dẫn tâm trở về cái neo đó. Đối tượng của định phải rõ ràng (ví dụ tượng Phật), im lặng, và vững vàng. Tránh những đối tượng dễ sinh ra cảm giác nhàm chán hay khiến ý tưởng dễ bị lạc hướng vì bị kích thích.

Đối tượng chánh niệm rộng rãi hơn, mở rộng, bao la và nếu tâm bị đi lạc thiền sư dùng ý thức để trở về hơi thở. Thiền chánh niệm thực ra không trụ ở chỗ nào, không để Tâm đi lạc, hoàn toàn an trú trong hiện tại. Khi có ý tưởng nào mới nổi dậy, người thực hành Thiền không ngăn chận chúng, nhưng chỉ để chúng biến mất tự nhiên.

Quán tưởng hình tượng là một tâm hành phức tạp. Hành giả hình dung hình tượng, vẻ mặt, quần áo, dáng ngồi hay đứng… và quan sát kỹ càng từng chi tiết hình tượng. Người hành Thiền hình dung toàn thể hình tượngcố gắng quân bình hóa toàn thể hình tượng này.

Những phương pháp thiền quán khác nhau là những cách mà các Thiền sư luyện tập trong nhiều năm, nên phương pháp này đối với họ trở nên ổn định và trong sáng.

Trong phòng thí nghiệm, có 2 cách chính để nghiên cứu hành giả Thiền.

Phương pháp EEGs ghi lại hoạt động của những dòng điện với thời gian chính xác, trong khi máy đo cộng hưởng từ trường (fMRI), đo lượng máu chảy trong nhiều vùng khác nhau của não bộ, cung cấp chính xác những khu nơi các tế bào não đang hoạt động.

blankCác Thiền sư trụ trong trạng thái trung lập của não chừng 60 giây sau đó chuyển sang trạng thái Thiền. Quá trình này được lập đi lập lại nhiều lần. Các dụng cụ đo đạc gồm 256 censors ghi nhận cảm thọ của Thiền sư. Các dòng điện cho thấy sự khác biệt giữa một người mới ngồi Thiền và những Thiền sưkinh nghiệm. Trong lúc thực hành Thiền từ bi, các Thiền sưkinh nghiệm cho thấy các mức hoạt động não tăng lên nhờ các tia sóng gamma. Hiện tượng này trước đây chưa bao giờ được báo cáo trong khoa thần kinh não bộ”, Davidson cho biết.

Người ta cũng thấy các chuyển động của các sóng qua não được phối hợp tốt hơn, nhịp nhàng hơn so với nhóm kiểm soát, mức hoạt động của tia gamma tăng nhẹ khi họ ở trong trạng thái Thiền. Điều này cho thấy là não có thể được huấn luyện được để thay đổi về mặt vật lý mà trước giờ nhiều người khó có thể tưởng tượng ra được. Và các Thiền sư có thể điều hành các hoạt động não một cách có chủ ý”.

Một trong những khám phá thú vị nhất là những vị sư có kinh nghiệm từng thực tập Thiền lâu năm có thể làm khởi động nhiều tia gamma nhất. Điều này khiến Davidson đưa đến kết luận là ‘Thiền không những làm thay đổi hoạt động của não ngắn hạn mà có thể tạo những thay đổi dài hạn”

“Không loại bỏ khả năng những hoạt động não của những người mới hành Thiền và các thiền sư nhiều kinh nghiệm khác nhau trước khi họ thực tập Thiền”. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy có sự khác biệt giữa các thiền sư mới thực tập và các thiền sư kinh nghiệmdo quá trình thực tập. Davidson nói rằng có bằng chứng cho thấy là những nhà sư thực hành Thiền nhiều năm có những thay đổi hoạt động não bộ nhiều nhất cho chúng ta thấy là thay đổi là do thực tập gây ra. Bằng chứng cũng cho thấy là những người thực tập Thiền lâu năm có nhiều tia gamma hơn những người trong nhóm kiểm soát, ngay trong khi não bộ của họ đang trong trạng thái trung lập, trước khi bắt đầu đổi sang trạng thái Thiền. Một tác giả chuyên viết về khoa học, Sharon Begley phê bình: “Điều này mở ra một khả năng thú vị là não bộ, cũng giống như các phần khác của cơ thể, có thể thay đổi một các tự ý. Cũng giống như tập thể dục dưới nước làm bắp thịt thay đổi, luyện tập óc não có thể làm thay đổi chất xám trong những cách mà các nhà khoa học có thể bắt đầu hiểu được.’

Phản xạ giật mình

Giật mình vì tiếng động lớn là một phản ứng tự nhiên sơ khai của cơ thể. Bắp thịt co rút một cách nhanh chóng khi thình lình nghe một tiếng động hay chứng kiến một cảnh kinh hãi bất ngờ. Trong phản xạ giật mình, 5 bắp thịt ở mặt, phần lớn quanh mắt, co lại tức khắc. Toàn bộ phản ứng kéo dài chừng một phần ba giây.

Cũng như các phản xạ khác, đây là một phản ứng phát sinh từ tế bào não và thường không thể kiểm soát hay ngăn chặn được. Và theo những gì khoa học biết đến nay, không có cơ chế nào có thể kiểm soát được phản xạ này. Mức độ nghiêm trọng của những phản ứng tự động đó phản ảnh cho những tình cảm tiêu cực như sợ hãi, giận dữ, buồn bã và kinh tởm. Các tình cảm tiêu cực mạnh chừng đó, phản xạ giật mình càng mạnh chừng đó.

Để thí nghiệm phản xạ giật mình của người thực hành Thiền, Paul Ekman và Robert Levenson, hai tâm lý gia tiên phong nghiên cứu về tình cảm, đã làm việc tại Phòng Thí Nghiệm Tâm Sinh lý tại Đại Học Berkeley. Các phản ứng vật lý của cơ thể người ngồi Thiền như nhịp tim, mức toát mồ hôi, và nhiệt độ của da được đo đạc. Phản ứng của mặt được quay phim để bắt kịp những phản ứng của tâm sinh lý trong phản xạ giật mình. Tiếng nổ thình lình dựa trên mức độ mà con người có thể chịu đựng được như một tiếng nổ lớn tương đương với một tiếng súng bắn bên tai.

Đối tượng thí nghiệm được cho biếttrong vòng 5 phút sẽ có một tiếng nổ lớn. Người này được yêu cầu làm mọi cách để vô hiệu hóa phản xạ giật mình thành một phản ứng không đáng kể, nếu có thể được. Một số người phản ứng tốt hơn một số người khác, nhưng không có người nào áp đảo được phản xạ một cách hoàn toàn - dù là họ cố gắng hết sức. Trong số hàng trăm đối tượng nghiên cứu của Ekman và Levenson thí nghiệm, kể cả cảnh sát chuyên bắn sẽ, không có người nào áp đảo được phản xạ khi nghe tiếng nổ thình lình. Nhưng các người thực hành thiền có thể áp đảo phản xạ này được.

Ekman giải thích: “Khi các thiền sư cố gắng đàn áp phản xạ giật mình, phản xạ này hầu như biến mất. Từ trước đến giờ chúng tôi chưa thấy người nào có thể làm được chuyện này. Đây là một sự kiện hết sức ngoạn mục. Chúng tôi hoàn toàn không biết tại sao các thiền sư có thể dằn được các phản xạ giật mình này!”

Trong lúc thử nghiệm, các thiền sư thực hành hai loại thiền quán: Quán tưởngchánh niệm. Cả hai loại Thiền này đã được rMRI nghiên cứu trước đó tại Madison. Ảnh hưởng tốt nhất là Thiền chánh niệm: “Trong trạng thái chánh niệm, họ không chủ động kiểm soát phản xạ giật mình, nhưng tiếng nổ hình như xảy ra ở một khoảng rất xa nào đó. Do đó tiếng động trở yếu ớt hơn. Ekman mô tả tại sao về phương diện vật lý: mặt của các thiền sư biến đổi, nhưng không có một bắp thịt nào ở mặt cử động. Và đối tượng được thí nghiệm giải thích: “Trong lúc ý thức bị đi lạc, tiếng nổ đem tôi về hiện tại và làm tôi ngạc nhiên. Nhưng không gian hiện tại mở rộng, tôi an trú trong hiện tại và tiếng nổ lớn xảy ra chỉ gây một ít khó chịu; Giống như con chim lướt qua bầu trời”.

Mặc dù bắp thịt trên mặt của các thiền sư không co rút lại khi họ đang ở trong trong thái thiền chánh niệm, nhưng những phản ứng vật lý khác như nhịp tim, đổ mồ hôi, áp huyết… vẫn tăng lên như trong phản xạ giật mình. Điều này cho chúng ta biết là cơ thể có phản ứng, ghi nhận ảnh hưởng của tiếng nổ, nhưng tiếng nổ đó không gây ra phản ứng tình cảm nào trên Tâm. Phản ứng của các thiền sư cho thấy tình cảm của họ trong tình trạng ‘xả’, một đặc tính trong tứ vô lượng tâmPhật Giáo hay nhắc tới như thành quả của việc ngồi thiền.

Viễn tượng huấn luyện tâm linh

Nhà nghiên cứu Coleman viết:

‘Đi tìm một họa đồ …trong đó não bộ có thể huấn luyện được những tình cảm tích cực: hài lòng thay vì tham đắm, an lành thay vì bị khích động, từ bi thay vì sân hận. Dược phẩm là phương tiện chính tại Tây phương để thay đổi tình cảm rối loạn, tuy là rất hiệu nghiệm trong việc thay đổi thay đổi trạng thái tình cảm vui buồn cho hàng vạn (triệu) bệnh nhân. Những thí nghiệm với các Thiền sư đặt ra câu hỏi là: một người qua nỗ lực của chính mình, có thể mang tới những thay đổi tích cực lâu dài bằng cách thay đổi chức năng não bộ có thể có những kết quả tốt hơn dược phẩm trong việc tác động trên tình cảm?’

Về khoa học trí năng, thí nghiệm này không phải chỉ có mục đích chứng tỏ khả năng của một số thiền sư, nhưng giúp cho chúng ta suy nghĩ lại những giả định về tác động của việc huấn luyện tâm linh để tạo ra những tình cảm tích cực. Những gì chúng ta khám phá trong việc huấn luyện tâm linh, hay óc não, về phương diện vật lý, khác với những người chưa được huấn luyện. Đến một lúc chúng ta có thể hiểu những sự quan trọng tiềm ẩn của việc huấn luyện tâm linh và khiến mọi người suy nghĩ nghiêm túc hơn về Thiền quán như là một phương pháp huấn luyện ” Davidson nói: “Điều quan trọng là khám phá ra quá trình huấn luyện tâm linh cho những ai có đủ quyết tâm thực hiện.

Chúng ta tự hỏi là cần bao nhiêu thời gian thực hành thiền quán mới đủ để làm não bộ thay đổi, nhất là trong phương pháp tế nhị như thực hành thiền. Cũng giống như đến mức nào một nhạc sĩ vĩ cầm đã thực tập bao nhiêu giờ mới có đủ khả năng thi vào Viện âm nhạc quốc gia? Phần lớn những thiền sư đang được Luts và Davidsob nghiên cứu đã thực tập 10 ngàn giờ Thiền quán, phần lớn trong các khóa tu hay trong sinh hoạt hàng ngày.

Mười ngàn giờ thực tập Thiền quán đối với nhiều người là một thời gian quá dài, phần lớn chúng ta không mấy ai đạt tới mức này. Tuy nhiên có nhiều tín hiệu đáng khích lệ từ nghiên cứu khác do Jon Kabat Zin và Davidson, các đối tượng thí nghiệm chỉ cần thực tập 3 tháng, não thùy phía trước bên trái của các nhân viên trong một công ty kỹ thuật cao cấp ở Madison thay đổi và cho thấy là có dấu hiệu kích hoạt. Những nghiên cứu của Davidson và các đồng nghiệp trong 20 năm qua cho thấy nhiều người thực tập báo cáo về tình cảm tích cực như ‘hỷ’, ‘vị tha’, ‘nhiệt tâm’, và họ cảm thấy có thêm nhiều sinh lựccảm thấy sinh động vào cuối các thời kỳ huấn luyện. Hệ thống miễn nhiễm của các người được huấn luyện thực tập Thiền cũng tăng lên, các liều chủng ngừa trong mùa trong khóa huấn luyện có hiệu quả hơn 20% so với các chủng ngừa trong các nhóm kiểm soát.

Nói tóm lại viễn tượng dùng Thiền quán để huấn luyện tâm linh để làm cho các tình cảm phá hoại biến mất. Những yếu tố thực dụng trong Thiền Quán có thể rất quý giá trong việc phối hợp với giáo dục thiếu nhi để giúp các em khi trưởng thành sống được một cuộc đời có chất lượng hơn. Những kỹ thuật Thiền Quángiá trị giải quyết cơ chế sâu xa nhất về Tâm của con người, giá trị như thế sẽ có tánh cách phổ quát, không cần phải mang nhãn hiệu Thiền ‘Phật giáo’. Tóm lại sự hợp tác hiện nay giữa khoa học và Thiền quán có thể giúp con người thấy được giá trị vô giá của việc huấn luyện Tâm Linh. Nếu sự quân bình giữa hạnh phúc và tình cảm được thực hiện bằng một khả năng có thể đào tạo, chúng ta không thể nào lượng giá đúng mức quyền lực chuyển hóa của Tâm và phải xem đây những phương pháp sâu xa giúp chúng ta trở thành con người tốt hơn.

Matthieu Ricard
(Chuyển Luân)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11717)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11227)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11948)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10275)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29267)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11965)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11962)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10964)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19640)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7357)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11384)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12875)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17373)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11492)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11854)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15947)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12130)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14119)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12628)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13231)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13681)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20027)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14430)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13566)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12366)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11909)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34766)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13426)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13741)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32002)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13224)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13078)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13438)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18059)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14942)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15750)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14889)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15868)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20816)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21338)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35180)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43971)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15153)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15082)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13008)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12671)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15633)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14991)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11429)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53221)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16551)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13192)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20716)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12640)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15619)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15527)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14808)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15629)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13063)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11786)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12320)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12596)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13504)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12493)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25005)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11997)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12777)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11627)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13770)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14128)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12935)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12762)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13029)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13942)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13017)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13637)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12477)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14462)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13319)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13797)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14649)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11889)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12735)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28312)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11818)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12665)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15080)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12024)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11789)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12895)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12003)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11534)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10309)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant