Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota

17 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13813)
Câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota

CÂU CHUYỆN TẦM SƯ HỌC ĐẠO

của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota
ALEXANDRA DAVID NÉEL
Huỳnh Ngọc Chiến dịch

blankLTS: Diệu pháp của chư Phật là thứ “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, cho nên tự ngàn xưa các vị tổ sư đã không ngần ngại xả bỏ tất cả, kể cả sinh mạng để tầm cầu đạo giải thoát. Đức Phật từng hiến thân mạng cho quỷ để được nghe một câu kệ(1). Đức Khổng Tử cũng nói: “Buổi sáng nghe được đạo, đến chiều chết cũng cam lòng” (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ). Cánh tay của nhị tổ Tuệ Khả dâng lên sơ tổ Đạt Ma trong một đêm tuyết trắng, câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của Narota và Karma Dordji là những trang sử bi tráng kể lại cuộc viễn trình bất tận để tìm cầu giải thoát của con người.

Xin giới thiệu câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị tổ Mật tông Tilopa và Narota, cùng câu chuyện kỳ lạ của Karma Dordji - một tu sĩ Tây Tạng được xem đã đạt đến thần thông, sống cùng thời với tác giả Alexandra David Néel.(Hình bên: Alexandra David Neel)

Trong thời buổi mạt pháp hiện nay, những tấm gương hy sinh cầu đạo có khi lại có tác dụng giáo hóa con người nhiều hơn những trang luận thuyết về kinh điển.

Trân trọng


Bất ngờ được một đạo sư nhận làm môn đồ, những năm tháng nhập môn tu luyện khổ cực, những thử thách mà một môn đồ phải trải qua cùng những tình huống đốn ngộ, ngần ấy thứ đủ để viết nên một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị.

Hàng trăm cuộc phiêu lưu kỳ diệu, từ thuở xưa hoặc gần đây, được ghi chép trong tiểu sử của các Lạt ma danh tiếng, hoặc được các nhân chứng kể lại, lâu nay vẫn lưu truyền khắp xứ Tây Tạng. Khi được dịch sang một ngôn ngữ xa lạ, được đọc ở một xứ sở mà phong tục, tư tưởng và bầu không khí khác hẳn với Tây Tạng, thì cái ma lực huyền bí của những “truyền thuyết vàng son” đó của Lạt ma giáo tan biến cả. Nhưng nếu được một người nào đó kể lại bằng giọng sùng kính chân thành, trong một căn phòng tranh tối tranh sáng của một tu viện, hoặc dưới mái vòm đá trong thạch động của một vị ẩn tu, thì tâm hồn người Tây Tạng lại đắm chìm trong những tình tiết độc đáo dù cũ mèm nhưng mãnh liệt của nó, với nỗi khát vọng hướng về thế giới bên kia.

Trước hết, tôi xin kể lại câu chuyện huyền thoại của đạo sư Tilopa từ khi ông được điểm đạo cho đến lúc giáo lý ông được du nhập vào Tây Tạng và chuyển thành giáo phái Khagyudpa (Mũ Đỏ) mà ông được xem là sơ tổ.

Tilopa đang ngồi đọc một bộ luận thì có một bà lão ăn mày xuất hiện sau lưng, làm ra vẻ như chồm qua vai ông dòm đọc mấy dòng, rồi đột nhiên buông thõng một câu:

- Đọc thì đọc vậy, nhưng không biết có hiểu gì không?

Tilopa phừng phừng nổi đóa. Làm sao một mụ ăn mày lại dám buông lời hỗn xược như vậy? Nhưng bà già kia không để cho ông kịp biểu lộ cơn giận dữ, mà còn đưa tay xé toạc mất mấy trang sách.

Nhà học giả nhảy chồm lên. Con quỷ cái kia nghĩ sao mà dám xé rách cuốn thánh thư?

Như để trả lời sự kinh hãi lẫn phẫn nộ của ông, bà lão kia lại xé toạc thêm mấy tờ nữa, đoạn lẩm bẩm một chữ gì đó mà Tilopa nghe không rõ, rồi biến mất.

blankLạ lùng thay, cái chữ mà Tilopa không nghe rõ đó đột nhiên làm ông dịu hẳn cơn phẫn nộ. Một cảm giác buồn chán tràn ngập trong hồn, nỗi nghi ngờ về kiến thức từ chương của mình bỗng dâng trào trong tâm tưởng... Và sau hết là nỗi hoang mang, liệu ông có thấu hiểu được giáo lý được trình bày trong bộ luận kia không? Không những chỉ bộ luận đó thôi, mà còn nhiều kinh sách khác, liệu ông có hiểu được gì không, hay cũng chỉ là một kẻ ngu si dốt nát?

Bà lão xa lạ kia đã nói gì với ông? Những lời nói, mà ông không hiểu đó, mang ý nghĩa gì? Ông muốn hiểu, khát khao muốn hiểu.

Tilopa liền lên đường đi tìm bà lão xa lạ kia. Sau không biết bao nhiêu năm tháng dài đằng đẵng, đầy mệt mỏi với những chuyến đi bươn bả ngược xuôi, cuối cùng vào một đêm khuya, ông tìm thấy bà lão đó trong một khu rừng vắng (có sách nói là gặp trong nghĩa trang). Đôi mắt của bà đỏ rực như hai cục than hồng trong đêm tối.

Tilopa hiểu ngay đó là một thiên nữ Dâkini. Những thiên nữ này đóng một vai trò rất lớn trong Mật tông Tây Tạng, như truyền dạy các mật pháp bí truyền cho những ai thờ cúng họ, hoặc cho những người cao tay ấn biết dùng pháp thuật huyền môn để buộc họ phải khai thị những mật pháp đó. Người ta thường gọi đó là những “thánh mẫu”. Họ thường xuất hiện dưới dạng các bà lão già nua, và dấu hiệu để phân biệt họ là đôi mắt xanh lè hoặc đỏ rực.

Ngay trong buổi đàm đạo đầu tiên, thiên nữ đó đã khuyên Tilopa đi đến cảnh trời của các Dâkini để gặp vị nữ chúa tể. Bà báo cho biết trên đường đi đến đó sẽ có vô vàn chông gai nguy hiểm đang chờ đợi ông: hang thẳm hố sâu, thác ghềnh chảy xiết, ác thú hung dữ, ảo ảnh đánh lừa, yêu ma quỷ đói tràn đầy. Nếu ông khống chế được nỗi kinh hãi, nếu ông vượt qua được con đường bé tí như sợi chỉ chạy ngoằn ngoèo qua xứ sở khủng khiếp đó, có thể ông còn bị quái vật ăn thịt nữa. Trong cơn đói khát dày vò, nếu ông chỉ uống một ngụm nước mát hoặc ăn một trái cây đang lủng lẳng trước mặt, ngay trong tầm tay vói, từ những hàng cây sum sê trĩu quả hai bên đường, hoặc nếu ông gặp một cô gái trẻ đẹp mà đứng lại để trò chuyện vui đùa thì lập tức ông biến thành kẻ đần độn quên mất đường về. (Hình bên trái: Tilopa / ảnh của Việt Nalanda Foundation)

Bà lão dạy cho ông một câu mật chú hộ mạng để làm hành trang lên đường. Ông phải tập trung tư tưởng để niệm câu mật chú đó liên tục không gián đoạn, cho dù gặp phải bất gì cảnh ngộ nào trên đường đi.

Một số người tin rằng Tilopa đã thực sự thành công trong chuyến viễn trình kỳ ảo đó. Một số khác đã quen thuộc với những hiện tượng xuất hiện trong trạng thái xuất thần thì cho rằng đó chỉ là sự biểu hiện của tâm thức. Một số khác nữa cho rằng tất cả những điều được diễn tả chỉ thuần túy mang tính biểu trưng.

Dù là gì đi nữa thì theo tiểu sử của ông, Tilopa đã chiêm bái vô số ảnh tượng kinh hoàng hoặc mê ly kỳ ảo đã được cảnh báo trước. Ông đã chiến đấu trên những sườn đồi hiểm trở và trong những thác ghềnh cuồn cuộn. Ông đã phải chịu tê cóng vì tuyết lạnh, chịu cháy nóng giữa sa mạc khô cằn đầy cát mà không bao giờ xao lãng niệm mật chú hộ thân.

Cuối cùng, ông đến được tòa lâu đài với những dãy tường đồng sáng lóa. Những con quái thú khổng lồ trông rất khủng khiếp nhe nanh há miệng muốn nuốt sống ông, cây cối vung cành lá để ngăn cản bước chân ông. Tuy nhiên, Tilopa vẫn vào được tòa lâu đài kỳ ảo đó: vô số phòng ốc bố trí chằng chịt tạo nó thành một mê cung. Tilopa tìm ra được đường đi và đến tòa cung thất của vị nữ chúa.

Vị nữ chúa ngồi ở đó trên ngai vàng, với vẻ đẹp siêu phàm tuyệt tục, trang phục cực kỳ lộng lẫy, mỉm cười chào đón vị anh hùng phiêu lãng khi ông ta vừa bước qua ngưỡng cửa.

Thế nhưng Tilopa không bị vẻ đẹp của vị nữ chúa và ngoại cảnh làm cho dao động, ông cứ bước thẳng lên ngai vàng, miệng vẫn lâm râm đọc mật chú, vất vương miện của nữ chúa xuống đất, lấy chân đạp lên, xé toạc chiếc hoàng bào mạ vàng lấp lánh; khi vị nữ chúa đã hoàn toàn trần truồng, ông liền cưỡng hiếp nàng ngay trên ngai vàng.

Chinh phục được một Dâkini bằng cách cưỡng hiếp hoặc bằng huyền thuật là chủ đề phổ biến trong nền văn học Mật tông Tây Tạng. Đó là một ẩn dụ nói về sự chinh phục chân lý và là một tiến trình phát triển tâm linh.

Tilopa truyền pháp cho Narota(3), và Marpa - môn đồ của Narota - là người truyền bá giáo lý của Tilopa vào Tây Tạng. Đệ tử trác việt của Marpa, là nhà thơ khổ hạnh Milarespa(4), đã kế thừa pháp thống và truyền cho Tagpo Lhadji, rồi cứ tiếp tục truyền thừa cho đến ngày nay.

blankTiểu sử của đạo sư Narota, pháp tự của Tilopa, đã phác họa nên một bức tranh lý thú nhưng không kém phần phóng túng về quá trình “thuần hóa” môn đồ của một đạo sư pháp môn “Đốn ngộ” (Sentier direct) hay “Con đường tắt”.

Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng và luôn được kể lại cho các naldjorpa(5) trẻ tuổi để họ noi gương học tập.

Narota sinh vào thế kỷ thứ mười tại Cachemire(6). Ông là con trai trong một gia đình Bà La môn, kiến thức rất uyên bác và là một cao thủ về huyền thuật. Ông làm pháp sư chánh tế cho một vị tiểu vương (rajah). Một hôm vị tiểu vương xúc phạm đến ông, và Narota quyết tâm báo thù.

Ông khép mình trong một tòa lâu đài biệt lập, và lập một đàn tràng huyền thuật hình tròn gọi là kyilkhor để giết chết vị tiểu vương. Khi ông chuẩn bị thi triển huyền thuật thì một thiên nữ Dâkini bất ngờ xuất hiện, hỏi ông có biết cách tiếp dẫn một “linh hồn” đi về cảnh giới cực lạc, sau đó đưa hồn về nhập lại xác để hồi sinh hay không. Vị cao thủ huyền thuật này buộc lòng phải thú nhận rằng trình độ của ông còn xa lắm mới đạt đến mức đó. Thiên nữ Dâkini bèn mắng nhiếc ông thậm tệ. Bà chỉ cho ông thấy rằng ta không được quyền hủy hoại những gì ta không có khả năng khôi phục, và tuyên bố hành động hận thù thiếu cân nhắc của ông sẽ khiến ông tái sinh trong hỏa ngục. Narota hoảng sợ nên cầu xin một pháp môn giúp ông thoát khỏi số phận kinh khủng đó. Thiên nữ liền khuyên ông nên đi tìm đạo sư Tilopa để cầu xin truyền thụ pháp môn “Đốn ngộ”, là pháp môn thù thắng vi diệu giúp ta tiêu trừ mọi nghiệp báo và đạt quả vị Niết bàn ngay trong đời này. Nếu Narota thấu triệt được pháp môn này và tu thành chánh quả thì ông sẽ thoát khỏi sinh tử luân hồi, có nghĩa là thoát khỏi cảnh đọa đày trong địa ngục. (Hình bên trái: Narota / ảnh: Việt Nalanda Foundation)

Narota liền dẹp bỏ đàn tràng kyilkhor, rồi vội vã lên đường đi đến Bengale là nơi Tilopa đang sống.

Lúc đó Tilopa là một đạo sư tiếng tăm vang dội. Sau khi đắc pháp, ông trở thành một nhà tu khổ hạnh avadhoutâ. Đó là loại khổ tu được mô tả là: “tâm không còn yêu ghét, không quan tâm đến vinh nhục, xả ly tất cả, đoạn tuyệt hoàn toàn với gia đình, xã hộitôn giáo.” Trái lại, Narota thuộc dòng dõi Ấn Độ giáo chính thống, bẩm sinh đã là giai cấp Bà la môn quý tộc thượng lưu. Sự kết hợp hai nhân cách hoàn toàn trái ngược nhau đã làm phát sinh một vở tuồng hài hước, nhưng là một tấn kịch cay đắng cho Narota.

Buổi hội kiến đầu tiên giữa Narota với vị đạo sư tương lai diễn ra trong một tu viện Phật giáo. Lúc đó, Tilopa gần như trần truồng, ngồi xổm dưới đất ăn cá, vứt một đống xương bên cạnh. Vì không muốn kẻ ăn xin bẩn thỉu kia làm ô uế đến sự thanh khiết của giai cấp mình, Narota liền đi vòng để tránh xa. Lúc đó, một vị Tăng từ trong nhà bếp bước ra quở trách Tilopa đã phạm tội sát sinh trong khuôn viên nhà chùa. Vừa nói, vị Tăng vừa ra hiệu cho Tilopa cút đi. Tilopa không thèm trả lời,  mà huơ tay một cái rồi đọc câu mật chú, đống xương cá kia lập tức hồi phục lại phần thịt để trở lại thành một đàn cá, rồi nhảy tung lên không biến mất. Bữa ăn sát sinh tàn bạo kia không lưu lại một dấu vết gì, còn Tilopa thì đi xa mất.

Narota sững sờ kinh ngạc, một ý tưởng vụt lóe lên trong đầu ông. Kẻ hiển lộ thần thông kia hẳn phải là Tilopa mà ông đang tìm kiếm. Narota vội vàng hỏi thăm và biết ngay trực giác mình đã đúng. Ông gấp rút đuổi theo vị hành giả du già (yogi) kia, nhưng ông ta đã bặt tăm.

Từ đó, Narota bắt đầu một loạt các chuyến viễn du, mà những người viết tiểu sử ông luôn thêm thắt điểm tô thêm, nhưng cơ bản là có thực. Người môn đồ tự nguyện cứ theo đuổi Tilopa từ nơi này sang nơi khác. Mỗi khi nghe tin Tilopa ở nơi nào là ông lập tức tìm đến, nhưng lần nào cũng vậy, hễ ông đến nơi thì Tilopa vừa mới bỏ đi. Nhiều khi Narota gặp được Tilopa một cách tình cờ, song thực ra đó là những ảo ảnh do Tilopa dùng thần thông biến hiện để thử thách vị môn đồ.

Một hôm, Narota đến gõ cửa một ngôi nhà bên đường để khất thực. Chủ nhà bố thí cho ông một vò rượu, nhưng ông từ chối vì một tu sĩ Bà la môn không được quyền uống rượu. Ảo cảnh lập tức tan đi, ngôi nhà biến mất, chỉ một mình ông đứng cô đơn giữa đường, trên không nghe vọng lại tiếng cười chế nhạo của Tilopa: “Chính là ta đó!”.

Một lần khác, khi một người dân làng nhờ ông giúp lột da một con vật chết. Ở Ấn Độ, đây là công việc của giai cấp paria hạ tiện. Đối với một tu sĩ Bà la môn, chỉ cần đến gần những người thuộc giai cấp đó cũng đủ để bị ô uế rồi. Narota vội bỏ chạy, trong lòng cảm thấy ghê tởm và phẫn nộ. Ông lại nghe đạo sư Tilopa cười nhạo từ cõi vô hình: “Chính là ta đó!”.

Một ngày khác, Narota thấy một người đàn ông đang nắm tóc bà vợ đánh đấm túi bụi, bà này gào khóc kêu cứu. Thấy ông đi tới, gã kia kêu lên: “Đây là vợ tôi, tôi muốn giết mụ ta, tới giúp tôi một tay, không thì đi tránh giùm cho”. Narota nổi giận xông tới giằng gã đàn ông ra, đánh cho y một trận thừa sống thiếu chết để cứu người phụ nữ. Lần này, ông lại nghe tiếng đạo sư Tilopa cười khinh bỉ: “Chính là ta đó!”.

Các cuộc phiêu lưu khác tiếp theo của Narota cũng tương tự như vậy.

Dù là một cao thủ huyền thuật, nhưng Narota vẫn không sao lường được cảnh tượng biến ảo khôn lường do Tilopa bày ra. Ông muốn điên cả đầu, thế nhưng khát vọng tìm cho được Tilopa để làm lễ bái sư càng thôi thúc ông mãnh liệt. Narota lang thang khắp xứ sở, lớn tiếng kêu gọi tên vị đạothần bí; vì biết rằng vị đạo sư kia có thể hóa thân thành mọi hình tướng, nên ông sẵn sàng quỳ phủ phục dưới chân của mọi khách qua đường để lễ bái.

Một buổi chiều nọ, Narota đến một nghĩa trang. Một bó củi nằm lăn lóc ở một góc, thỉnh thoảng có ngọn lửa lóe ra, giữa các thanh củi cháy dở là một xác người co quắp cháy đen. Nhờ ánh lửa, Narota thấy loáng thoáng có một người nào đó nằm dài dưới đất. Ông xem kỹ lại thì thấy người kia đang nhìn ông mỉm cười tinh quái. Narota vụt hiểu ngay, ông liền quỳ mọp xuống và đặt bàn chân của sư phụ lên đầu. Lần này thì Tilopa không biến mất nữa.

Suốt bao nhiêu năm, Narota đi theo hầu hạ mà vị sư phụ lại không hề dạy cho đệ tử một chữ nào. Trái lại, Narota lại tỏ ra hết lòng tuân mệnh và tin tưởng thầy tuyệt đối, dù phải chịu đựng vô vàn điều thử thách. Tôi xin kể lại một vài điều.

Theo tập quán của những những khổ tu Ấn Độ, thì hàng ngày Narota phải đi khất thựctrở về với bình bát chứa cơm, canh. Ông dâng bình bát lên cho sư phụ, và theo giới luật, ông chỉ được ăn sau khi đạo sư (gourou) của mình đã ăn no. Tilopa ăn hết sạch và bảo rằng thức ăn ngon quá nên muốn ăn thêm. Không đợi thầy nói thêm, Narota đã vội vã ôm bình bát đến nhà vị thí chủ tốt bụng để xin thêm. Đến nơi thì ông thấy cửa đã đóng, nhưng vị môn đồ kia không nản chí. Ông phá cửa, đi vào nhà bếp thì thấy vẫn còn cơm canh vẫn còn trên lò lửa, liền múc thêm cơm canh cho đúng với sở thích của sư phụ. Đúng lúc đó vị chủ nhà quay trở về, bèn cho ông một trận đòn ra trò khiến mặt mày thâm tím.

Narota cố lết thân về gặp Tilopa, nhưng vị sư phụ chẳng thèm ngó ngàng gì đến gã đệ tử đáng thương, mà chỉ buông một câu khinh khỉnh:

- Vì ta mà ngươi phải chịu đựng bao điều khổ cực. Chắc ngươi rất hối hận vì đã làm đệ tử ta phải không?

thân thể đau đớn như dần, Narota đáng thương vẫn cố lấy hết sức để thề rằng ông hoàn toàn không hề hối hận khi nhận Tilopa làm sư phụ. Ông cho rằng được làm môn đồ của đạo sư như Tilopa phải trả một giá rất đắt, có khi bằng cả sinh mạng.

Một lần khác khi đi cạnh một ống cống lộ thiên, Tilopa quay sang hỏi các đệ tử cùng đi với mình:

- Nếu ta yêu cầu thì ai trong số các ngươi dám uống nước cống này?

Vấn đề không chỉ là vượt qua được cảm giác tởm lợm, mà còn phải chịu đựng sự uế tạp, một điều rất nghiêm trọng đối với tu sĩ thuộc đẳng cấp Bà la môn. Trong khi các đệ tử khác còn đang do dự thì Narota đã bước tới để uống thứ nước cống kinh tởm kia.

Thử thách sau đây càng dã man hơn nữa.

Hai thầy trò sống trong một thảo am ở bìa rừng. Một hôm, khi đi khất thực ở làng về, Narota thấy trong lúc ông vắng mặt, Tilopa đã vót một số xiên tre và đang trui chúng trên lửa. Narota ngạc nhiên, liền hỏi sư phụ mình dùng thứ đó để làm gì.

Tilopa mỉm cười đầy ý nghĩa, rồi hỏi:

- Nếu bị ta bắt buộc thì liệu ngươi có chịu đau nổi không?

Narota liền trả lời rằng ông đã tận hiến cho sư phụ nên sư phụ muốn làm gì tùy thích.

- Vậy thì hay lắm - Tilopa ra lệnh - ngươi hãy chìa tay ra đây.

Narota ngoan ngoãn vâng lời. Tilopa liền dùng các xiên tre đang nóng đâm vào từng móng tay, móng chân của Narota. Bỏ mặc tên đệ tử đang quằn quại đau đớn trong thảo am, Tilopa thản nhiên bỏ đi ra ngoài và dặn Narota cứ nằm đó chờ ông về.

Mấy ngày hôm sau, vị đạo sư tàn nhẫn kia mới quay về. Ông thấy gã đệ tử đang ngồi xổm trong lều, các xiên tre vẫn còn đâm sâu vào da thịt.

Tilopa cất tiếng hỏi:

- Mấy ngày qua sống một mình, ngươi suy nghĩ những gì? Giờ đây có phải ngươi đang nghĩ rằng ta là một gã sư phụ mất hết nhân tính và tốt nhất là nên bỏ đi, có đúng vậy không?

Narota liền đáp:

- Con đang nghĩ đến cuộc sống khủng khiếp đang chờ con ở địa ngục, nếu như con không có cơ duyên được gặp sư phụ để học pháp môn “Đốn ngộ”, giúp con chứng ngộgiải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Tôi xin kể thêm một thử thách hài hước khác nữa.

Tilopa đang cùng môn đồ đi dạo thì gặp một đám rước cô dâu. Vị đạo sư liền ngoảnh mặt hỏi các môn đồ:

- Trong các ngươi đây, ai có thể cướp được cô dâu đem đến cho ta? Ta thích cô ta.

Một lần nữa, trước khi Tilopa dứt lời, Narota đã xông tới đám rước. Đoàn người trong đám rước nhận ra đó là một vị tu sĩ Bà la môn nên ngỡ rằng ông ta đến để ban phước cho cô dâu. Nhưng khi thấy Narota nắm lấy cô dâu toan dắt đi thì nào gậy gộc, nào guốc dép, nào hộp đựng lễ vật thi nhau đập tới tấp lên người Narota. Và vị môn đồ nhiệt tình kia một lần nữa lại nằm im bất động tại chỗ sau trận đòn chí mạng.

Ngay sau khi hồi tỉnh, ông đã vội lê bước một cách khó nhọc theo Tilopa. Vị đạoquái dị vẫn chào đón ông bằng câu nói quen thuộc sau mỗi lần thử thách: “Ngươi có hối hận không?” Và cũng như mọi lần, Narota khẳng định dù phải có chết muôn vạn lần ông vẫn cầu mong được làm đệ tử Tilopa.

Tiếp theo đó, ông phải nhảy xuống từ mái nhà cao, băng qua lò lửa, và hoàn thành nhiều điều thử thách lạ thường suýt mấy lần khiến ông mất mạng.

Sau một chuỗi dài những khổ đau, cuối cùng Narota đã được bù đắp công lao, nhưng không phải bằng hình thức điểm đạo hay truyền pháp thông thường.

Nếu chúng ta tin vào truyền thống thì Tilopa đã sử dụng một phương pháp khai ngộ dị thường, giống thủ pháp của các thiền sư Trung Quốc.

Một điều chắc chắn là mặc dù không được Tilopa trực tiếp chỉ giáo trong giai đoạn nhập môn, nhưng Narota vẫn tiếp nhận được một số giáo lý thù thắng của sư phụ. Sự kiện ông chứng ngộ được tả như sau:

Narota đang ngồi bên đống lửa ở giữa trời với sư phụ, thì Tilopa không nói không rằng, bất ngờ cởi giày quất vào mặt ông một cái trời giáng khiến vị đệ tử tối tăm mặt mày, mắt nổ đom đóm, nhưng đúng lúc đó ông hoát nhiên đại ngộ diệu pháp “Đốn ngộ” thượng thừa.

Narota có rất nhiều đệ tử, nhưng đúng theo truyền thống, ông không thử thách hay gây khổ đau cho đệ tử như ông đã từng trải qua.

Sau khi trở thành một đạo sư lỗi lạc, Narota dành nhiều năm (có tài liệu nói là mười hai năm liên tục) để thiền địnhđạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Mtchog gi ngos grub), như Đức Phật.

Khi về già, ông lui về Hy Mã Lạp Sơn sống ẩn tu.

Narota nổi tiếngTây Tạng với tư cáchgourou của Marpa, và Marpa là sư phụ của nhà thơ thánh tăng khổ hạnh Milarespa, mà cuộc đời cùng những bài thơ còn được truyền tụng mãi mãi trong lòng người Tây Tạng.

Nếu Narota dịu dàng với đệ tử thì Marpa lại khác hẳn. Ông đày đọa Milarespa suốt mấy năm trời, không biết bao nhiêu lần ông bắt Milarespa xây nhà xong, ông đập phá và bắt phải xây lại.

Milarespa phải một mình đào đá và khuân trên vai để đi đến chỗ xây nhà. Đá nặng làm bong da, gây nhiễm trùng lở loét cả đôi vai, nhưng người cha tinh thần của kẻ lao động nhọc nhằn kia lại không hề nhận thấy sự tàn bạo của mình. Bà vợ thương Milarespa như đứa con mình, nên bà ta với nước mắt đoanh tròng, trách cứ đức ông chồng sao quá nhẫn tâm. Ông này bèn cho phépđệ tử khố khổ kia lót thêm một miếng vải dạ trên vai để giảm bớt đau cho vết thương khi khuân đá. Ở Tây Tạng thì người ta chỉ làm điều này với những con vật thồ.

Ngôi nhà do Milarespa xây ngày nay vẫn còn ở Lhobrag, thuộc miền Nam Tây Tạng.

Người Tây Tạng luôn cho rằng những câu chuyện này đều trung thực tuyệt đối mà không mảy may nghi ngờ gì cả. Nếu không thể sánh được đức tin với họ thì tốt nhất là chúng ta nên xem tất cả những cuộc phiêu lưu lạ thường của những đệ tử nhập môn cùng những sự cố khó tin đó chỉ thuần là hư cấu.

Tâm hồn người Tây Tạng vẫn không có gì biến đổi kể từ thời Marpa ở thế kỷ thứ mười. Tôi đã gặp rất nhiều Lạt macuộc đời chỉ là bản sao của đời sống nội tâm và phong tục tập quán ở xứ sở họ, giống hệt như sách vở mô tả, chính xác đến tận từng chi tiết nhỏ nhất.

Những đệ tử nhập môn muốn tầm sư học đạo, nếu không có được nhiệt tình và lòng tin tuyệt đối như Marpa hay Milarespa - vì đó là trường hợp đặc biệt ngoại lệ, thì ít ra cũng phải sẵn sàng hy sinh và đón nhận những chuyện dị thường, và thế là cuốn tiểu thuyết lạ lùng kia lại được lặp lại từng ngày, ở khắp bốn phương trong cái “Xứ Tuyết” này.

Bị tác động bởi sự sợ hãi, bởi sự hoang mang xao xuyến bủa vây trong tâm hồn trong thời gian bị thử thách quyết tâm, hoặc bởi những chuyến viễn du dài dằng dặc qua những vùng hoang liêu cô tịch, nên những người đệ tử nhập môn tìm đến thế giới ẩn tu của vị sư phụ mà họ chọn lựa, trong một trạng thái tinh thần khác người. Vẻ ảm đạm hoang liêu của nơi ẩn tu cũng như danh tiếng về huyền thuật của những vị thầy đó đã gây ấn tượng sâu đậm lên tâm hồn người đệ tử, và không còn nghi ngờ gì nữa, cái tâm hồn đó đang khát khao đón nhận những phép lạ diễn ra trong từng bước chân đi.

Kể từ ngày đó, và trong suốt quãng thời gian tu tập tâm linh về sau, người đệ tử sẽ liên tục sống trong cảnh giới dị thường huyền ảo. Chung quanh anh ta, đất trời đang ôm nhau khiêu vũ, quỷ thần sẽ đem những ảo ảnh kinh khiếp để khủng bố anh ta, và một khi người đệ tử vượt qua được nỗi sợ hãi thì ảo ảnh kia trở nên khôi hài, lố bịch. Những biến cố hãi hùng đến khó tin đó sẽ nối tiếp nhau trong suốt nhiều năm tháng: mười năm, hai mươi năm hoặc nhiều hơn thế nữa. Chúng sẽ đày đọa người đệ tử cho chết đi sống lại, trừ phi đến một ngày nào đó, anh ta bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng và hoát nhiên đại ngộ. Đến lúc đó, người đệ tử sẽ đến phủ phục quỳ dưới chân thầy khắt khe kia để nói lời từ biệt mà không xin học thêm gì khác nữa. 

 

(1) Truyền thuyết kể rằng trong một tiền kiếp, Phật đã hy sinh thân mình để được nghe hết một bài kệ về Chánh pháp. Khi quỷ La sát đọc cho Đức Phật nghe hai câu kệ: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp”. Đức Phật xin nghe thêm hai câu chót, quỷ ra điều kiện nghe rồi phải hiến thân cho quỷ ăn thịt. Đức Phật nhận lời. Quỷ bèn đọc tiếp: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đức Phật nghe xong từ cây cao rơi xuống miệng quỷ. Giai thoại này trong Phật giáo gọi là “Tuyết Sơn bán kệ”.

(2) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB PLON, 1929, các trang 181-192.

(3) Narota là tên đúng, nhưng người Tây Tạng lại thường gọi ông là Naropa.

(4) Chúng ta thường quen với tên Milarepa hơn (HNC).

(5) Theo nghĩa đen là “người đã đạt đến trạng thái thanh tĩnh tuyệt đối”, nhưng đám đông quần chúng lại cho rằng đó là những bậc khổ tu có nhiều pháp thuật.

(6) Tiếng Anh Kasmir: chỉ vùng thung lũng phía Nam ở cực Tây của dãy Hy Mã Lạp Sơn (HNC).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9960)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9935)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20511)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10353)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9955)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10348)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9934)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34419)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8717)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9279)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11099)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8521)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9801)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9183)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20455)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19198)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8759)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8869)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12113)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9603)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23006)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9001)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9265)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9975)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9904)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10624)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12489)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9339)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9200)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9323)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10459)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22003)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22252)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16609)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9541)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10198)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8397)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8629)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12275)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9135)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9611)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8620)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9453)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8625)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8360)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8476)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10190)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23637)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9576)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9394)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9006)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8343)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8531)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7885)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7983)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8807)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8937)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10066)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8631)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30412)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30089)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24179)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9638)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9519)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9507)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7859)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9073)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28225)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23717)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12246)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8888)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14242)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9659)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9347)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9646)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30903)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27124)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32721)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58688)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10658)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9401)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9567)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13945)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10769)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28165)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23281)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10131)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant