Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota

17 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13825)
Câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota

CÂU CHUYỆN TẦM SƯ HỌC ĐẠO

của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota
ALEXANDRA DAVID NÉEL
Huỳnh Ngọc Chiến dịch

blankLTS: Diệu pháp của chư Phật là thứ “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, cho nên tự ngàn xưa các vị tổ sư đã không ngần ngại xả bỏ tất cả, kể cả sinh mạng để tầm cầu đạo giải thoát. Đức Phật từng hiến thân mạng cho quỷ để được nghe một câu kệ(1). Đức Khổng Tử cũng nói: “Buổi sáng nghe được đạo, đến chiều chết cũng cam lòng” (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ). Cánh tay của nhị tổ Tuệ Khả dâng lên sơ tổ Đạt Ma trong một đêm tuyết trắng, câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của Narota và Karma Dordji là những trang sử bi tráng kể lại cuộc viễn trình bất tận để tìm cầu giải thoát của con người.

Xin giới thiệu câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị tổ Mật tông Tilopa và Narota, cùng câu chuyện kỳ lạ của Karma Dordji - một tu sĩ Tây Tạng được xem đã đạt đến thần thông, sống cùng thời với tác giả Alexandra David Néel.(Hình bên: Alexandra David Neel)

Trong thời buổi mạt pháp hiện nay, những tấm gương hy sinh cầu đạo có khi lại có tác dụng giáo hóa con người nhiều hơn những trang luận thuyết về kinh điển.

Trân trọng


Bất ngờ được một đạo sư nhận làm môn đồ, những năm tháng nhập môn tu luyện khổ cực, những thử thách mà một môn đồ phải trải qua cùng những tình huống đốn ngộ, ngần ấy thứ đủ để viết nên một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị.

Hàng trăm cuộc phiêu lưu kỳ diệu, từ thuở xưa hoặc gần đây, được ghi chép trong tiểu sử của các Lạt ma danh tiếng, hoặc được các nhân chứng kể lại, lâu nay vẫn lưu truyền khắp xứ Tây Tạng. Khi được dịch sang một ngôn ngữ xa lạ, được đọc ở một xứ sở mà phong tục, tư tưởng và bầu không khí khác hẳn với Tây Tạng, thì cái ma lực huyền bí của những “truyền thuyết vàng son” đó của Lạt ma giáo tan biến cả. Nhưng nếu được một người nào đó kể lại bằng giọng sùng kính chân thành, trong một căn phòng tranh tối tranh sáng của một tu viện, hoặc dưới mái vòm đá trong thạch động của một vị ẩn tu, thì tâm hồn người Tây Tạng lại đắm chìm trong những tình tiết độc đáo dù cũ mèm nhưng mãnh liệt của nó, với nỗi khát vọng hướng về thế giới bên kia.

Trước hết, tôi xin kể lại câu chuyện huyền thoại của đạo sư Tilopa từ khi ông được điểm đạo cho đến lúc giáo lý ông được du nhập vào Tây Tạng và chuyển thành giáo phái Khagyudpa (Mũ Đỏ) mà ông được xem là sơ tổ.

Tilopa đang ngồi đọc một bộ luận thì có một bà lão ăn mày xuất hiện sau lưng, làm ra vẻ như chồm qua vai ông dòm đọc mấy dòng, rồi đột nhiên buông thõng một câu:

- Đọc thì đọc vậy, nhưng không biết có hiểu gì không?

Tilopa phừng phừng nổi đóa. Làm sao một mụ ăn mày lại dám buông lời hỗn xược như vậy? Nhưng bà già kia không để cho ông kịp biểu lộ cơn giận dữ, mà còn đưa tay xé toạc mất mấy trang sách.

Nhà học giả nhảy chồm lên. Con quỷ cái kia nghĩ sao mà dám xé rách cuốn thánh thư?

Như để trả lời sự kinh hãi lẫn phẫn nộ của ông, bà lão kia lại xé toạc thêm mấy tờ nữa, đoạn lẩm bẩm một chữ gì đó mà Tilopa nghe không rõ, rồi biến mất.

blankLạ lùng thay, cái chữ mà Tilopa không nghe rõ đó đột nhiên làm ông dịu hẳn cơn phẫn nộ. Một cảm giác buồn chán tràn ngập trong hồn, nỗi nghi ngờ về kiến thức từ chương của mình bỗng dâng trào trong tâm tưởng... Và sau hết là nỗi hoang mang, liệu ông có thấu hiểu được giáo lý được trình bày trong bộ luận kia không? Không những chỉ bộ luận đó thôi, mà còn nhiều kinh sách khác, liệu ông có hiểu được gì không, hay cũng chỉ là một kẻ ngu si dốt nát?

Bà lão xa lạ kia đã nói gì với ông? Những lời nói, mà ông không hiểu đó, mang ý nghĩa gì? Ông muốn hiểu, khát khao muốn hiểu.

Tilopa liền lên đường đi tìm bà lão xa lạ kia. Sau không biết bao nhiêu năm tháng dài đằng đẵng, đầy mệt mỏi với những chuyến đi bươn bả ngược xuôi, cuối cùng vào một đêm khuya, ông tìm thấy bà lão đó trong một khu rừng vắng (có sách nói là gặp trong nghĩa trang). Đôi mắt của bà đỏ rực như hai cục than hồng trong đêm tối.

Tilopa hiểu ngay đó là một thiên nữ Dâkini. Những thiên nữ này đóng một vai trò rất lớn trong Mật tông Tây Tạng, như truyền dạy các mật pháp bí truyền cho những ai thờ cúng họ, hoặc cho những người cao tay ấn biết dùng pháp thuật huyền môn để buộc họ phải khai thị những mật pháp đó. Người ta thường gọi đó là những “thánh mẫu”. Họ thường xuất hiện dưới dạng các bà lão già nua, và dấu hiệu để phân biệt họ là đôi mắt xanh lè hoặc đỏ rực.

Ngay trong buổi đàm đạo đầu tiên, thiên nữ đó đã khuyên Tilopa đi đến cảnh trời của các Dâkini để gặp vị nữ chúa tể. Bà báo cho biết trên đường đi đến đó sẽ có vô vàn chông gai nguy hiểm đang chờ đợi ông: hang thẳm hố sâu, thác ghềnh chảy xiết, ác thú hung dữ, ảo ảnh đánh lừa, yêu ma quỷ đói tràn đầy. Nếu ông khống chế được nỗi kinh hãi, nếu ông vượt qua được con đường bé tí như sợi chỉ chạy ngoằn ngoèo qua xứ sở khủng khiếp đó, có thể ông còn bị quái vật ăn thịt nữa. Trong cơn đói khát dày vò, nếu ông chỉ uống một ngụm nước mát hoặc ăn một trái cây đang lủng lẳng trước mặt, ngay trong tầm tay vói, từ những hàng cây sum sê trĩu quả hai bên đường, hoặc nếu ông gặp một cô gái trẻ đẹp mà đứng lại để trò chuyện vui đùa thì lập tức ông biến thành kẻ đần độn quên mất đường về. (Hình bên trái: Tilopa / ảnh của Việt Nalanda Foundation)

Bà lão dạy cho ông một câu mật chú hộ mạng để làm hành trang lên đường. Ông phải tập trung tư tưởng để niệm câu mật chú đó liên tục không gián đoạn, cho dù gặp phải bất gì cảnh ngộ nào trên đường đi.

Một số người tin rằng Tilopa đã thực sự thành công trong chuyến viễn trình kỳ ảo đó. Một số khác đã quen thuộc với những hiện tượng xuất hiện trong trạng thái xuất thần thì cho rằng đó chỉ là sự biểu hiện của tâm thức. Một số khác nữa cho rằng tất cả những điều được diễn tả chỉ thuần túy mang tính biểu trưng.

Dù là gì đi nữa thì theo tiểu sử của ông, Tilopa đã chiêm bái vô số ảnh tượng kinh hoàng hoặc mê ly kỳ ảo đã được cảnh báo trước. Ông đã chiến đấu trên những sườn đồi hiểm trở và trong những thác ghềnh cuồn cuộn. Ông đã phải chịu tê cóng vì tuyết lạnh, chịu cháy nóng giữa sa mạc khô cằn đầy cát mà không bao giờ xao lãng niệm mật chú hộ thân.

Cuối cùng, ông đến được tòa lâu đài với những dãy tường đồng sáng lóa. Những con quái thú khổng lồ trông rất khủng khiếp nhe nanh há miệng muốn nuốt sống ông, cây cối vung cành lá để ngăn cản bước chân ông. Tuy nhiên, Tilopa vẫn vào được tòa lâu đài kỳ ảo đó: vô số phòng ốc bố trí chằng chịt tạo nó thành một mê cung. Tilopa tìm ra được đường đi và đến tòa cung thất của vị nữ chúa.

Vị nữ chúa ngồi ở đó trên ngai vàng, với vẻ đẹp siêu phàm tuyệt tục, trang phục cực kỳ lộng lẫy, mỉm cười chào đón vị anh hùng phiêu lãng khi ông ta vừa bước qua ngưỡng cửa.

Thế nhưng Tilopa không bị vẻ đẹp của vị nữ chúa và ngoại cảnh làm cho dao động, ông cứ bước thẳng lên ngai vàng, miệng vẫn lâm râm đọc mật chú, vất vương miện của nữ chúa xuống đất, lấy chân đạp lên, xé toạc chiếc hoàng bào mạ vàng lấp lánh; khi vị nữ chúa đã hoàn toàn trần truồng, ông liền cưỡng hiếp nàng ngay trên ngai vàng.

Chinh phục được một Dâkini bằng cách cưỡng hiếp hoặc bằng huyền thuật là chủ đề phổ biến trong nền văn học Mật tông Tây Tạng. Đó là một ẩn dụ nói về sự chinh phục chân lý và là một tiến trình phát triển tâm linh.

Tilopa truyền pháp cho Narota(3), và Marpa - môn đồ của Narota - là người truyền bá giáo lý của Tilopa vào Tây Tạng. Đệ tử trác việt của Marpa, là nhà thơ khổ hạnh Milarespa(4), đã kế thừa pháp thống và truyền cho Tagpo Lhadji, rồi cứ tiếp tục truyền thừa cho đến ngày nay.

blankTiểu sử của đạo sư Narota, pháp tự của Tilopa, đã phác họa nên một bức tranh lý thú nhưng không kém phần phóng túng về quá trình “thuần hóa” môn đồ của một đạo sư pháp môn “Đốn ngộ” (Sentier direct) hay “Con đường tắt”.

Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng và luôn được kể lại cho các naldjorpa(5) trẻ tuổi để họ noi gương học tập.

Narota sinh vào thế kỷ thứ mười tại Cachemire(6). Ông là con trai trong một gia đình Bà La môn, kiến thức rất uyên bác và là một cao thủ về huyền thuật. Ông làm pháp sư chánh tế cho một vị tiểu vương (rajah). Một hôm vị tiểu vương xúc phạm đến ông, và Narota quyết tâm báo thù.

Ông khép mình trong một tòa lâu đài biệt lập, và lập một đàn tràng huyền thuật hình tròn gọi là kyilkhor để giết chết vị tiểu vương. Khi ông chuẩn bị thi triển huyền thuật thì một thiên nữ Dâkini bất ngờ xuất hiện, hỏi ông có biết cách tiếp dẫn một “linh hồn” đi về cảnh giới cực lạc, sau đó đưa hồn về nhập lại xác để hồi sinh hay không. Vị cao thủ huyền thuật này buộc lòng phải thú nhận rằng trình độ của ông còn xa lắm mới đạt đến mức đó. Thiên nữ Dâkini bèn mắng nhiếc ông thậm tệ. Bà chỉ cho ông thấy rằng ta không được quyền hủy hoại những gì ta không có khả năng khôi phục, và tuyên bố hành động hận thù thiếu cân nhắc của ông sẽ khiến ông tái sinh trong hỏa ngục. Narota hoảng sợ nên cầu xin một pháp môn giúp ông thoát khỏi số phận kinh khủng đó. Thiên nữ liền khuyên ông nên đi tìm đạo sư Tilopa để cầu xin truyền thụ pháp môn “Đốn ngộ”, là pháp môn thù thắng vi diệu giúp ta tiêu trừ mọi nghiệp báo và đạt quả vị Niết bàn ngay trong đời này. Nếu Narota thấu triệt được pháp môn này và tu thành chánh quả thì ông sẽ thoát khỏi sinh tử luân hồi, có nghĩa là thoát khỏi cảnh đọa đày trong địa ngục. (Hình bên trái: Narota / ảnh: Việt Nalanda Foundation)

Narota liền dẹp bỏ đàn tràng kyilkhor, rồi vội vã lên đường đi đến Bengale là nơi Tilopa đang sống.

Lúc đó Tilopa là một đạo sư tiếng tăm vang dội. Sau khi đắc pháp, ông trở thành một nhà tu khổ hạnh avadhoutâ. Đó là loại khổ tu được mô tả là: “tâm không còn yêu ghét, không quan tâm đến vinh nhục, xả ly tất cả, đoạn tuyệt hoàn toàn với gia đình, xã hộitôn giáo.” Trái lại, Narota thuộc dòng dõi Ấn Độ giáo chính thống, bẩm sinh đã là giai cấp Bà la môn quý tộc thượng lưu. Sự kết hợp hai nhân cách hoàn toàn trái ngược nhau đã làm phát sinh một vở tuồng hài hước, nhưng là một tấn kịch cay đắng cho Narota.

Buổi hội kiến đầu tiên giữa Narota với vị đạo sư tương lai diễn ra trong một tu viện Phật giáo. Lúc đó, Tilopa gần như trần truồng, ngồi xổm dưới đất ăn cá, vứt một đống xương bên cạnh. Vì không muốn kẻ ăn xin bẩn thỉu kia làm ô uế đến sự thanh khiết của giai cấp mình, Narota liền đi vòng để tránh xa. Lúc đó, một vị Tăng từ trong nhà bếp bước ra quở trách Tilopa đã phạm tội sát sinh trong khuôn viên nhà chùa. Vừa nói, vị Tăng vừa ra hiệu cho Tilopa cút đi. Tilopa không thèm trả lời,  mà huơ tay một cái rồi đọc câu mật chú, đống xương cá kia lập tức hồi phục lại phần thịt để trở lại thành một đàn cá, rồi nhảy tung lên không biến mất. Bữa ăn sát sinh tàn bạo kia không lưu lại một dấu vết gì, còn Tilopa thì đi xa mất.

Narota sững sờ kinh ngạc, một ý tưởng vụt lóe lên trong đầu ông. Kẻ hiển lộ thần thông kia hẳn phải là Tilopa mà ông đang tìm kiếm. Narota vội vàng hỏi thăm và biết ngay trực giác mình đã đúng. Ông gấp rút đuổi theo vị hành giả du già (yogi) kia, nhưng ông ta đã bặt tăm.

Từ đó, Narota bắt đầu một loạt các chuyến viễn du, mà những người viết tiểu sử ông luôn thêm thắt điểm tô thêm, nhưng cơ bản là có thực. Người môn đồ tự nguyện cứ theo đuổi Tilopa từ nơi này sang nơi khác. Mỗi khi nghe tin Tilopa ở nơi nào là ông lập tức tìm đến, nhưng lần nào cũng vậy, hễ ông đến nơi thì Tilopa vừa mới bỏ đi. Nhiều khi Narota gặp được Tilopa một cách tình cờ, song thực ra đó là những ảo ảnh do Tilopa dùng thần thông biến hiện để thử thách vị môn đồ.

Một hôm, Narota đến gõ cửa một ngôi nhà bên đường để khất thực. Chủ nhà bố thí cho ông một vò rượu, nhưng ông từ chối vì một tu sĩ Bà la môn không được quyền uống rượu. Ảo cảnh lập tức tan đi, ngôi nhà biến mất, chỉ một mình ông đứng cô đơn giữa đường, trên không nghe vọng lại tiếng cười chế nhạo của Tilopa: “Chính là ta đó!”.

Một lần khác, khi một người dân làng nhờ ông giúp lột da một con vật chết. Ở Ấn Độ, đây là công việc của giai cấp paria hạ tiện. Đối với một tu sĩ Bà la môn, chỉ cần đến gần những người thuộc giai cấp đó cũng đủ để bị ô uế rồi. Narota vội bỏ chạy, trong lòng cảm thấy ghê tởm và phẫn nộ. Ông lại nghe đạo sư Tilopa cười nhạo từ cõi vô hình: “Chính là ta đó!”.

Một ngày khác, Narota thấy một người đàn ông đang nắm tóc bà vợ đánh đấm túi bụi, bà này gào khóc kêu cứu. Thấy ông đi tới, gã kia kêu lên: “Đây là vợ tôi, tôi muốn giết mụ ta, tới giúp tôi một tay, không thì đi tránh giùm cho”. Narota nổi giận xông tới giằng gã đàn ông ra, đánh cho y một trận thừa sống thiếu chết để cứu người phụ nữ. Lần này, ông lại nghe tiếng đạo sư Tilopa cười khinh bỉ: “Chính là ta đó!”.

Các cuộc phiêu lưu khác tiếp theo của Narota cũng tương tự như vậy.

Dù là một cao thủ huyền thuật, nhưng Narota vẫn không sao lường được cảnh tượng biến ảo khôn lường do Tilopa bày ra. Ông muốn điên cả đầu, thế nhưng khát vọng tìm cho được Tilopa để làm lễ bái sư càng thôi thúc ông mãnh liệt. Narota lang thang khắp xứ sở, lớn tiếng kêu gọi tên vị đạothần bí; vì biết rằng vị đạo sư kia có thể hóa thân thành mọi hình tướng, nên ông sẵn sàng quỳ phủ phục dưới chân của mọi khách qua đường để lễ bái.

Một buổi chiều nọ, Narota đến một nghĩa trang. Một bó củi nằm lăn lóc ở một góc, thỉnh thoảng có ngọn lửa lóe ra, giữa các thanh củi cháy dở là một xác người co quắp cháy đen. Nhờ ánh lửa, Narota thấy loáng thoáng có một người nào đó nằm dài dưới đất. Ông xem kỹ lại thì thấy người kia đang nhìn ông mỉm cười tinh quái. Narota vụt hiểu ngay, ông liền quỳ mọp xuống và đặt bàn chân của sư phụ lên đầu. Lần này thì Tilopa không biến mất nữa.

Suốt bao nhiêu năm, Narota đi theo hầu hạ mà vị sư phụ lại không hề dạy cho đệ tử một chữ nào. Trái lại, Narota lại tỏ ra hết lòng tuân mệnh và tin tưởng thầy tuyệt đối, dù phải chịu đựng vô vàn điều thử thách. Tôi xin kể lại một vài điều.

Theo tập quán của những những khổ tu Ấn Độ, thì hàng ngày Narota phải đi khất thựctrở về với bình bát chứa cơm, canh. Ông dâng bình bát lên cho sư phụ, và theo giới luật, ông chỉ được ăn sau khi đạo sư (gourou) của mình đã ăn no. Tilopa ăn hết sạch và bảo rằng thức ăn ngon quá nên muốn ăn thêm. Không đợi thầy nói thêm, Narota đã vội vã ôm bình bát đến nhà vị thí chủ tốt bụng để xin thêm. Đến nơi thì ông thấy cửa đã đóng, nhưng vị môn đồ kia không nản chí. Ông phá cửa, đi vào nhà bếp thì thấy vẫn còn cơm canh vẫn còn trên lò lửa, liền múc thêm cơm canh cho đúng với sở thích của sư phụ. Đúng lúc đó vị chủ nhà quay trở về, bèn cho ông một trận đòn ra trò khiến mặt mày thâm tím.

Narota cố lết thân về gặp Tilopa, nhưng vị sư phụ chẳng thèm ngó ngàng gì đến gã đệ tử đáng thương, mà chỉ buông một câu khinh khỉnh:

- Vì ta mà ngươi phải chịu đựng bao điều khổ cực. Chắc ngươi rất hối hận vì đã làm đệ tử ta phải không?

thân thể đau đớn như dần, Narota đáng thương vẫn cố lấy hết sức để thề rằng ông hoàn toàn không hề hối hận khi nhận Tilopa làm sư phụ. Ông cho rằng được làm môn đồ của đạo sư như Tilopa phải trả một giá rất đắt, có khi bằng cả sinh mạng.

Một lần khác khi đi cạnh một ống cống lộ thiên, Tilopa quay sang hỏi các đệ tử cùng đi với mình:

- Nếu ta yêu cầu thì ai trong số các ngươi dám uống nước cống này?

Vấn đề không chỉ là vượt qua được cảm giác tởm lợm, mà còn phải chịu đựng sự uế tạp, một điều rất nghiêm trọng đối với tu sĩ thuộc đẳng cấp Bà la môn. Trong khi các đệ tử khác còn đang do dự thì Narota đã bước tới để uống thứ nước cống kinh tởm kia.

Thử thách sau đây càng dã man hơn nữa.

Hai thầy trò sống trong một thảo am ở bìa rừng. Một hôm, khi đi khất thực ở làng về, Narota thấy trong lúc ông vắng mặt, Tilopa đã vót một số xiên tre và đang trui chúng trên lửa. Narota ngạc nhiên, liền hỏi sư phụ mình dùng thứ đó để làm gì.

Tilopa mỉm cười đầy ý nghĩa, rồi hỏi:

- Nếu bị ta bắt buộc thì liệu ngươi có chịu đau nổi không?

Narota liền trả lời rằng ông đã tận hiến cho sư phụ nên sư phụ muốn làm gì tùy thích.

- Vậy thì hay lắm - Tilopa ra lệnh - ngươi hãy chìa tay ra đây.

Narota ngoan ngoãn vâng lời. Tilopa liền dùng các xiên tre đang nóng đâm vào từng móng tay, móng chân của Narota. Bỏ mặc tên đệ tử đang quằn quại đau đớn trong thảo am, Tilopa thản nhiên bỏ đi ra ngoài và dặn Narota cứ nằm đó chờ ông về.

Mấy ngày hôm sau, vị đạo sư tàn nhẫn kia mới quay về. Ông thấy gã đệ tử đang ngồi xổm trong lều, các xiên tre vẫn còn đâm sâu vào da thịt.

Tilopa cất tiếng hỏi:

- Mấy ngày qua sống một mình, ngươi suy nghĩ những gì? Giờ đây có phải ngươi đang nghĩ rằng ta là một gã sư phụ mất hết nhân tính và tốt nhất là nên bỏ đi, có đúng vậy không?

Narota liền đáp:

- Con đang nghĩ đến cuộc sống khủng khiếp đang chờ con ở địa ngục, nếu như con không có cơ duyên được gặp sư phụ để học pháp môn “Đốn ngộ”, giúp con chứng ngộgiải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Tôi xin kể thêm một thử thách hài hước khác nữa.

Tilopa đang cùng môn đồ đi dạo thì gặp một đám rước cô dâu. Vị đạo sư liền ngoảnh mặt hỏi các môn đồ:

- Trong các ngươi đây, ai có thể cướp được cô dâu đem đến cho ta? Ta thích cô ta.

Một lần nữa, trước khi Tilopa dứt lời, Narota đã xông tới đám rước. Đoàn người trong đám rước nhận ra đó là một vị tu sĩ Bà la môn nên ngỡ rằng ông ta đến để ban phước cho cô dâu. Nhưng khi thấy Narota nắm lấy cô dâu toan dắt đi thì nào gậy gộc, nào guốc dép, nào hộp đựng lễ vật thi nhau đập tới tấp lên người Narota. Và vị môn đồ nhiệt tình kia một lần nữa lại nằm im bất động tại chỗ sau trận đòn chí mạng.

Ngay sau khi hồi tỉnh, ông đã vội lê bước một cách khó nhọc theo Tilopa. Vị đạoquái dị vẫn chào đón ông bằng câu nói quen thuộc sau mỗi lần thử thách: “Ngươi có hối hận không?” Và cũng như mọi lần, Narota khẳng định dù phải có chết muôn vạn lần ông vẫn cầu mong được làm đệ tử Tilopa.

Tiếp theo đó, ông phải nhảy xuống từ mái nhà cao, băng qua lò lửa, và hoàn thành nhiều điều thử thách lạ thường suýt mấy lần khiến ông mất mạng.

Sau một chuỗi dài những khổ đau, cuối cùng Narota đã được bù đắp công lao, nhưng không phải bằng hình thức điểm đạo hay truyền pháp thông thường.

Nếu chúng ta tin vào truyền thống thì Tilopa đã sử dụng một phương pháp khai ngộ dị thường, giống thủ pháp của các thiền sư Trung Quốc.

Một điều chắc chắn là mặc dù không được Tilopa trực tiếp chỉ giáo trong giai đoạn nhập môn, nhưng Narota vẫn tiếp nhận được một số giáo lý thù thắng của sư phụ. Sự kiện ông chứng ngộ được tả như sau:

Narota đang ngồi bên đống lửa ở giữa trời với sư phụ, thì Tilopa không nói không rằng, bất ngờ cởi giày quất vào mặt ông một cái trời giáng khiến vị đệ tử tối tăm mặt mày, mắt nổ đom đóm, nhưng đúng lúc đó ông hoát nhiên đại ngộ diệu pháp “Đốn ngộ” thượng thừa.

Narota có rất nhiều đệ tử, nhưng đúng theo truyền thống, ông không thử thách hay gây khổ đau cho đệ tử như ông đã từng trải qua.

Sau khi trở thành một đạo sư lỗi lạc, Narota dành nhiều năm (có tài liệu nói là mười hai năm liên tục) để thiền địnhđạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Mtchog gi ngos grub), như Đức Phật.

Khi về già, ông lui về Hy Mã Lạp Sơn sống ẩn tu.

Narota nổi tiếngTây Tạng với tư cáchgourou của Marpa, và Marpa là sư phụ của nhà thơ thánh tăng khổ hạnh Milarespa, mà cuộc đời cùng những bài thơ còn được truyền tụng mãi mãi trong lòng người Tây Tạng.

Nếu Narota dịu dàng với đệ tử thì Marpa lại khác hẳn. Ông đày đọa Milarespa suốt mấy năm trời, không biết bao nhiêu lần ông bắt Milarespa xây nhà xong, ông đập phá và bắt phải xây lại.

Milarespa phải một mình đào đá và khuân trên vai để đi đến chỗ xây nhà. Đá nặng làm bong da, gây nhiễm trùng lở loét cả đôi vai, nhưng người cha tinh thần của kẻ lao động nhọc nhằn kia lại không hề nhận thấy sự tàn bạo của mình. Bà vợ thương Milarespa như đứa con mình, nên bà ta với nước mắt đoanh tròng, trách cứ đức ông chồng sao quá nhẫn tâm. Ông này bèn cho phépđệ tử khố khổ kia lót thêm một miếng vải dạ trên vai để giảm bớt đau cho vết thương khi khuân đá. Ở Tây Tạng thì người ta chỉ làm điều này với những con vật thồ.

Ngôi nhà do Milarespa xây ngày nay vẫn còn ở Lhobrag, thuộc miền Nam Tây Tạng.

Người Tây Tạng luôn cho rằng những câu chuyện này đều trung thực tuyệt đối mà không mảy may nghi ngờ gì cả. Nếu không thể sánh được đức tin với họ thì tốt nhất là chúng ta nên xem tất cả những cuộc phiêu lưu lạ thường của những đệ tử nhập môn cùng những sự cố khó tin đó chỉ thuần là hư cấu.

Tâm hồn người Tây Tạng vẫn không có gì biến đổi kể từ thời Marpa ở thế kỷ thứ mười. Tôi đã gặp rất nhiều Lạt macuộc đời chỉ là bản sao của đời sống nội tâm và phong tục tập quán ở xứ sở họ, giống hệt như sách vở mô tả, chính xác đến tận từng chi tiết nhỏ nhất.

Những đệ tử nhập môn muốn tầm sư học đạo, nếu không có được nhiệt tình và lòng tin tuyệt đối như Marpa hay Milarespa - vì đó là trường hợp đặc biệt ngoại lệ, thì ít ra cũng phải sẵn sàng hy sinh và đón nhận những chuyện dị thường, và thế là cuốn tiểu thuyết lạ lùng kia lại được lặp lại từng ngày, ở khắp bốn phương trong cái “Xứ Tuyết” này.

Bị tác động bởi sự sợ hãi, bởi sự hoang mang xao xuyến bủa vây trong tâm hồn trong thời gian bị thử thách quyết tâm, hoặc bởi những chuyến viễn du dài dằng dặc qua những vùng hoang liêu cô tịch, nên những người đệ tử nhập môn tìm đến thế giới ẩn tu của vị sư phụ mà họ chọn lựa, trong một trạng thái tinh thần khác người. Vẻ ảm đạm hoang liêu của nơi ẩn tu cũng như danh tiếng về huyền thuật của những vị thầy đó đã gây ấn tượng sâu đậm lên tâm hồn người đệ tử, và không còn nghi ngờ gì nữa, cái tâm hồn đó đang khát khao đón nhận những phép lạ diễn ra trong từng bước chân đi.

Kể từ ngày đó, và trong suốt quãng thời gian tu tập tâm linh về sau, người đệ tử sẽ liên tục sống trong cảnh giới dị thường huyền ảo. Chung quanh anh ta, đất trời đang ôm nhau khiêu vũ, quỷ thần sẽ đem những ảo ảnh kinh khiếp để khủng bố anh ta, và một khi người đệ tử vượt qua được nỗi sợ hãi thì ảo ảnh kia trở nên khôi hài, lố bịch. Những biến cố hãi hùng đến khó tin đó sẽ nối tiếp nhau trong suốt nhiều năm tháng: mười năm, hai mươi năm hoặc nhiều hơn thế nữa. Chúng sẽ đày đọa người đệ tử cho chết đi sống lại, trừ phi đến một ngày nào đó, anh ta bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng và hoát nhiên đại ngộ. Đến lúc đó, người đệ tử sẽ đến phủ phục quỳ dưới chân thầy khắt khe kia để nói lời từ biệt mà không xin học thêm gì khác nữa. 

 

(1) Truyền thuyết kể rằng trong một tiền kiếp, Phật đã hy sinh thân mình để được nghe hết một bài kệ về Chánh pháp. Khi quỷ La sát đọc cho Đức Phật nghe hai câu kệ: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp”. Đức Phật xin nghe thêm hai câu chót, quỷ ra điều kiện nghe rồi phải hiến thân cho quỷ ăn thịt. Đức Phật nhận lời. Quỷ bèn đọc tiếp: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đức Phật nghe xong từ cây cao rơi xuống miệng quỷ. Giai thoại này trong Phật giáo gọi là “Tuyết Sơn bán kệ”.

(2) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB PLON, 1929, các trang 181-192.

(3) Narota là tên đúng, nhưng người Tây Tạng lại thường gọi ông là Naropa.

(4) Chúng ta thường quen với tên Milarepa hơn (HNC).

(5) Theo nghĩa đen là “người đã đạt đến trạng thái thanh tĩnh tuyệt đối”, nhưng đám đông quần chúng lại cho rằng đó là những bậc khổ tu có nhiều pháp thuật.

(6) Tiếng Anh Kasmir: chỉ vùng thung lũng phía Nam ở cực Tây của dãy Hy Mã Lạp Sơn (HNC).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14125)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10310)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10775)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11329)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11282)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10177)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10713)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42224)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10016)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10460)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10632)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45773)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32125)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11326)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10706)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11325)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10635)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13460)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12377)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11028)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10619)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12319)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11171)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11847)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9216)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10244)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10588)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10806)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32140)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27392)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17792)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11875)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10446)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10433)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10788)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28071)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10153)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10283)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10655)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10696)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11480)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18261)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10525)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12848)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11753)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29199)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28600)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13329)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22784)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13438)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11580)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13822)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25730)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14489)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11808)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11491)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12036)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22494)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11962)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14232)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13349)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12073)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10408)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11233)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13317)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34530)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12624)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12230)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12622)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16305)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11751)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27400)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28436)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13428)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant