Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự tánh Di Đà

24 Tháng Mười 201100:00(Xem: 15315)
Tự tánh Di Đà

TỰ TÁNH DI ĐÀ

Minh Mẫn

blankTất cả kinh điển Phật giáo nói chung và kinh điển Phật giáo Bắc truyền nói riêng, đều xoay quanh vấn đề sống và chết, nhất là Phật giáo Tây Tạng, để mở ra con đường giải thoát. Sống như thế nào để hiện tại được an lạc, hạnh phúc và chuẩn bị cho cái chết tốt đẹp, chết như thế nào cho cuộc sống tương lai thanh thoát nếu không nói là được giải thoát.

Sự diễn dịch của kinh điển đều hướng hành giả đi vào chọn lựa cách sốngrèn luyện thân tâm. Nhất là kinh tạng Bắc truyền chứa đựng triết lý uyên thâm dưới dạng truyền tích. Thêm vào đó là những luận giải của chư tổ, các hành giả, học giảthiện tri thức giúp cho nội dung kinh điển thêm phần sáng tỏ.

 

Kinh điển Bắc truyền, trên cơ sở Nikaya, sau 6 thế kỷ, triển khai sâu rộng qua nhiều triết luận và pháp hành, đến độ diện mạo nguyên thủy không còn nhận dạng rõ nét. Nhưng tinh túy vẫn không xa tôn chi của Tam pháp ấn. Nhờ thế, Phật giáo Bắc truyền đã lan tỏa sâu rộng hơn Phật giáo Nam truyền, cũng từ đó, tinh thần “Phật giáo phát triển” thấm sâu vào mọi sinh hoạt xã hội châu Á: – âm nhạc - hội họa – kịch nghệ - phim ảnh – chính trị - văn hóa – tập quán – ngoại giao…. Riêng pháp hành cũng đa dạng. Mỗi thời đại, tùy căn cơ tín chúng mà chư tổ triển khai một pháp môn tương thích. Khi Phật giáo Trung Hoa bàng bạc pháp môn Tịnh độ, chốn già lam gắn kết với nông nghiệp, việc trì bình khất thực không còn thích ứng; Từ vua quan đến thứ dân quen nghe đến việc hành thiện cầu phước, việc tạo tượng xây chùa đúc chuông là tiêu điểm để lập công bồi đức thì việc hướng nội tham thiền trở nên xa lạ, dành cho những bậc thượng căn trí tuệ. Từ đó, có sự phân cách giữa hành trạng tu tịnh và hành thiền, cứ như hai lãnh vực nầy không liên quan đến nhau. Do vậy, khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa, phủ nhận việc tạo 72 cảnh chùa của Lương Võ Đế thuộc về công đức, liền bị nhà vua xem Ngài là bọn ngoại đạo, vì không tương thích với truyền thống Phật giáo bản địa chứng tỏ vua chưa hiều giữa phước đức và công đức, cũng có nghĩa Phật giáo lúc bấy giờ chú hướng đến ngoại tướng và cầu phước báu nhiều hơn chiều sâu của con đường giải thoát.

Sau kỷ nguyên Bồ Đề Đạt Ma, chư tổ triển khai Thiền phái qua nhiều dạng thức: Tổ sư thiền - khẩu đầu thiềncông ánđại thừa thiềntối thượng thừa thiền – phản văn văn tự tánh – nhĩ căn viên thông, một số giòng phái như Liễu Quán, Thiên Thai, Trúc Lâm, Thảo Đường… và hiện nay có “Tri vọng chỉ vọng” – “Hiện pháp lạc trú” của những Thiền sư đương đại. Một số cố chấp kinh văn, xem những loại Thiền tự phát đều là ngoại giáo, bởi lẽ không có sự miên tục bắt nguồn từ khởi thủy nhưng quên rằng: Thế gian pháp tức Phật phápvô lượng pháp môn tu. Nghĩa là bất cứ pháp môn nào hiện tại, đưa hành giả đến an lạctrí tuệlòng từ phát triển đều là chánh pháp. Giáo lý Bắc truyền linh động uyển chuyển tùy đối cơsanh pháp. Nếu chỉ duy nhất “Minh sát tuệ” thì làm gì có “Tu Bụi” ra đời làm gì có trạng thái “Thỏng tay vào chợ” !

Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng, làm điểm tựa cho niềm tin quảng đại quần chúng. Thế nhưng, lý tánh của A Di Đà vẫn biểu thị tự tánh trong mỗi chúng sanh, đó là tự tánh hay còn gọi là Pháp thân Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang. Tử Thư Tây Tạng đi sâu vào chi tiết qua từng trạng thái cỏi trung giới khi mà thần thức chưa quyết định việc tái sanh. Một vị thầy hướng dẫn linh thức trải qua những kinh nghiệm về bardo, cho đến khi linh thức rơi vào tình trạng vô thức, bấy giờ ánh quang minh tự tánh xuất hiện. Có nghĩa trong mọi linh thức đều ẩn tàng ánh sáng chơn như. Tùy ánh sáng trong đục, mờ tỏ mà thần thức đầu thai vào cảnh giới đó. Ai Cập cũng có nói về Tử Thư, nhưng không chuyên sâu như Tạng Thư. Bằnh kinh nghiệm và kỷ thuật hướng linh, một Guru có thể chuyển linh thức vượt thoát Tam giới.

1/ Hiện tượng lâm sàng: Y khoa ngày nay không còn lạ về hiện tượng chết lâm sàng. Người chuyên môn ngành y bảo đó là trạng thái giữa sống và chết. Trạng thái lâm sàng như thế, có thể vài giờ, vài ngày, thỉnh thoảng có những trường hơp hy hữu, người chết nhiều năm sống lại, trạng thái đó coi là hôn mê. Thường những cảnh trạng như thế người ta đo thân nhiệt, xác định điện tâm đồ ngưng họat động, riêng điện não đồ còn chút dấu hiệu yếu ớt chập chờn. Quyết định cuối cùng của y học, xác định một người thật sự chết là lúc toàn bộ cơ năng không còn hoạt động. Nhưng khoa học vẫn chưa giải thích được một người chết lâm sàng, sau khi sống lại, diễn tả những cảnh tượng khi thần thức lìa khỏi xác; có thể họ bảo đó là trạng thái ảo giác mà người chết nhìn thấy từ thế giới bên kia, nhưng làm sao giải thích cái thấy của nạn nhân những hoạt cảnh trong bệnh viện, nơi thân thể nạn nhân đang nằm, các y bác sĩ và những gì diễn ra chung quanh lúc nạn nhân vẫn còn hôn mê. Khoa học chưa giải thích được mặc dù hiện tượng chết lâm sàng đã có từ ngàn xưa. Về lãnh vực tâm linh, nhất là đối với tôn giáo cổ Ai cập cũng như Tây Tạng, chúng không phải là vấn đề xa lạ thiếu kiểm soát. Điều chúng ta muốn đề cập đến không phải vấn đề hồi sinh hay hồi dương, mà là trạng thức khi thần khí ra khỏi xác.

2/ Ánh sáng cuối đường hầm: Một số trường hợp chết lâm sàng, thường thấy mình chui qua đường hầm hẹp và tối đen, sau đó bềnh bồng trong không gian mênh mông hoặc vụt đi với một tốc độ kinh hãi không thấy đâu bờ bến. Một số vừa thoát khỏi đường hầm, gặp những người thân quen đã chết trước hoặc gặp cảnh trí tươi mát thanh thản. Cũng có người vừa thoát con đuòng hầm hẹp tăm tối, ra đến vùng sáng chói chang hoặc êm dịu. Những dạng hồi sinh như thế đều bị tác động tâm lý và thay đổi tính tình, cư xử tốt hơn, cuộc sống an phậnđạo đức hơn. Nơi đây, chú ý đến hai dạng hồi sinh, một, qua vùng tăm tối, gặp cảnh vật hoặc người thân quen, sống lại sẽ biết chan hòa hơn, hướng nội và có đức tin thầm lặng. Dạng khác, người hồi sinh sẽ phát kiến nhiều hiểu biết hơn, trí tuệ khác thường hoặc có năng khiếu đặc biệt nếu không rút mình vào ốc đảo tự thân để chiêm nghiệm thể nghiệm tâm linh sau khi trở lại từ vùng ánh sáng.

Dĩ nhiên một linh thức mang nặng ác nghiệp, khi xuất ra khỏi thân thể, khó mà nhận được ánh sáng ngay. Nghĩa là ánh sáng tự tâm bị ác nghiệp che khuất, vì trường năng lượng nhuốm màu ô trược đen tối bao phủ. Ánh sáng tâm thức tỏa sáng được gọi là hào quang. Ánh sáng đó, trường năng lượng đó mang điện tích âm, được duy trì bởi một phần tâm thứctín ngưỡng nhân gian gọi là vía, đây không phải là linh hồn. Thần thức gồm cả vía và phách. Vía nằm giữa Thần và Phách, Phách là âm tính của Thức. Đây là cái nhìn của Đạo học. Riêng Phật giáo, không chủ hướng đến Phách và Vía. Thần khí là dạng năng lượng của tâm thức. Tâm thức tồn tại thì sự sống tồn tại, sự sống tồn tại nhờ năng lượng vật chất sản sanh huyết và khí. Huyết là dạng vật chất thô, Khí là dạng năng lượng vi tế. Khí sung thì Thần mãn, Thần khí sung túc thì trí tuệ phát sinh. Năng lượng có hai dạng, một, từ vật chất phát sanh, hai từ năng lượng ngoại biên hỗ trợ tác thành. Do tiếp nhậntiêu hóa vật chất trược thì sản sanh năng lượng ô trược, khó tiến hóa, có khuynh hướng xấu. Tiếp nhậntiêu hóa vật chất thanh như thực vật dương tính thì thanh khí phát triển, tâm hồn trong sáng, có khuynh hướng đạo đứclòng từ ái dồi dào. Tuy nhiên, tâm chủ đạo, nếu được rèn luyện hoặc tu tập, tâm có thể tác động đến khí huyết, phát sanh một trường năng lượng trong sáng, tột đỉnh của trường năng lượng sinh học của chư Phật, chư Thánh là trí tuệ phát quang. Đạo gia chú trọng luyện tinh để hóa Khí, luyện Khí để hóa Thần, luyện Thần để huờn Hư, Hư đây là chân tánh, là Tuệ tri. Ánh sáng của trí tuệ và ánh sáng của năng lượng sinh học khác nhau. Ánh sáng bức xạ của trường năng lượng vật chất thuộc loại vô cơ. Ánh sáng tâm thức hay năng lượng nghiệp thức thuộc loại hữu cơ. Thần thức lìa khỏi xác dù tạm thời hay vĩnh viễn đều mang theo năng lượng hữu cơ và vô cơ. Năng lượng vô cơ tồn tại trong một thời gian ngắn nếu thân xác có thể hồi sinh. Khi thân xác hoàn toàn mất sự liên kết với thần thức thì năng lượng vô cơ chan hòa vào vũ trụ, năng lượng hữu cơ tiếp tục đi theo sự dẫn dắt của nghiệp lực đối với một thần thức bình thường. Năng lượng hữu cơ của một bậc cực thiện sẽ là tuệ giác. Ánh sáng trí tuệ đó tồn tại vĩnh viễn, phủ trùm khắp không biên giới. Chư Phật, chư Bồ Tát Thánh Tăng là ánh sáng tuyệt đối của một tâm thức toàn giác. Đó là Pháp thân Vô Lượng Quang.

Yoga, Tiên gia, Đạo học, huyền linh thần bí học, Cao Đài Tiên giáo và những phép luyện công đều tiến đến đẳng cấp thăng hoa tâm linh. Bởi Đạo Học Đông phương quan niệm “Nhất Bản tán vạn thù” theo thuật ngữ Phật giáo khởi niệm “vô minh sanh ra vạn pháp”, nghĩa là từ một gốc mà sanh ra vạn loại, muốn quy về nguồn cội, “vạn thù phải quy nhất bản”, tức là vạn pháp khởi xuất từ vô minh, phải quy về vô minh để hóa giải vạn pháp. Nhưng khi quy về “Nhất Bản” rồi thì “Nhất quy hà xứ”? Cái một sẽ về đâu? Đây là vấn đề mà hầu hết các bộ môn huyền linh tâm pháp cố gắng lập thành từng bước hóa giải. Đạo gia dụng tâm chuyển hóa kinh mạch lạc, bằng cách luyện đơn, kết Thánh thai với phương thưc phổ dụng là “Thủy hỏa ký tế” hoặc “Tiểu châu Thiên” hòa nhập với “Đại châu Thiên”; Yoga cũng kết hợp âm dương như khí công. Cổ thư Bà La Môn giáo tương thích là Atman và Bhraman. Tiểu ngã trở về hòa hợp với Đại ngã. Dĩ nhiên bộ phái như thế đều có pháp hành và quá trình trãi nghiệm cùng thể nghiệm. Trong khi đó, Kito giáo phổ truyền thì sau khi lìa đời, trở về hầu cạnh chúa nơi Thiên quốc mà không trao cho tín hữu chìa khóa của bí pháp rèn luyện thân tâm, hoặc kết hợp cùng Chúa làm một. Tuy nhiên, một số rất ít Giám mục tiếp cận được bí pháp bế quan để hòa nhập cùng Thánh thể là chuyện ngoại lệ do có duyên gặp những bí pháp từ các chân sư trao truyền. Yoga từ Hatha cho đến Raja trãi qua 11 cấp, nghĩa là từ loại thể dục đến hoạt dụng tâm linh đưa đến giải thoát đều theo một chuẩn mực nhất định, chuyển hóa thể chất đến tâm linh một cách nhịp nhàng:

1- HathaYoga.
2- KarmaYoga.
3- JnanaYoga.
4- BhaktiYoga.
5- LayaYoga.
6- MantraYoga.
7- KriyaYoga.
8- ShivaYoga.
9- YantraYoga.
10- MudraYoga.
11- RajaYoga

Điểm gặp gỡ chung giữa các pháp thuật của Tôn giáo Phương Đông như Lão gia, Tiên Thiên Đại Đạo, một bộ phận của Yoga và mật pháp Ấn Tạng, đều lấy nội thể làm đối tượng tu luyện.

Những pháp cổ, truyền thống dùng Tam bửu nội thân (Tinh-Khí-Thần) để thăng tiến, thì vài thập niên của tiền bán thế kỷ 20, một số pháp môn được cải biên hoặc sáng tạo để đưa hành giả đến trình độ xuất hồn, đây không phải là pháp tối thắng để giải thoát, chỉ đáp ứng tính hiếu kỳ như một trò chơi tâm linh trong cõi tam giới. Lục tự Di Đàhồng danh của giáo chủ Tịnh Độ, thế mà vẫn có tông pháp kết hợp giữa Lục tự để luân chuyển qua các đại huyệt châu thân, họ gọi là “Pháp luân thường chuyển”, tuy vậy, vẫn có vị đắc pháp, phát huệ với pháp hành nầy. Thuật ngữ Yoga gọi các đại huyệt đó là luân xa (chakra). Võ thuật – y học Trung hoa gọi là đại huyệt. Những đám rối thái dương nầy có công năng thu – phát năng lượng để nuôi cơ thể, đạo thuật dùng nó để thăng tiến tâm linh. Luồng chơn khí luân lưu từ mạch nhâm qua mạch đốc vận sinh lực chạy dọc xương sống nuôi trí não. Các pháp thuật cũng dùng nguồn sinh lực đó chạy ngược từ luân xa 7 vòng xuống để xuất ra yết hầu hoặc kích thích kundalini bò theo cột sống khai mở huyệt bách hội thông qua tuyến tùng. Những vận hành pháp thuật đều có kết quả nhất định, nhất là chữa được bệnh thân và đem lại sức khỏe dồi dào, thế nhưng, theo nhà Phật, vẫn chưa thoát khỏi tam giới. Có những vị học lóm pháp thuật Đạo gia, lạm dụng “Khí Hải”, không biết chuyển hóa, lâu ngày tích khí phát cuồng dâm nộ, luôn hoang tưởng đạt được Thánh quả, hàng đêm lên cõi trời học pháp rồi đem xuống dạy cho trần gian, ai cũng biết đó là ma giới.

Tóm lại, cho dù bất cứ pháp hành nào cũng có một sở chứng nhất định trong cõi tam giới, đều mang thân ánh sáng của cảnh giới đắc pháp đó, loại ánh sáng như thế chưa phải Pháp thân thanh tịnh Vô lượng quang mà chỉ là vòng hào quang của năng lượng sinh học được nâng cấp. Cái tương thích giữa Yoga và Phật giáo trong quá trình tu dưỡng đều “phục vụ vô ngã” lợi thatự tâm phải diệt ngã. Tuyệt đỉnh Yoga là hòa nhập với Chân ngã, như một loại chân như Phật tánh. Vậy tiến trình chuyển hóa của Tự Tánh Di Đà là gì?

Theo Mật giáo, A Di Đàmật chú AMITA, Trí tánh của ngũ bộ Phật:

Tỳ Lô Giá Na Phật - A Súc Bệ Phật – Bảo Sanh PhậtA Di Đà PhậtBất Không Thành Tựu Phật. Đã là Trí tánh phải là ánh quang minh vĩnh hằng không giới hạn nên gọi là Vô Lượng Quang.

“Khi Đức Pháp Tạng Tỳ kheo đang hành trì tu tập, muốn thiết lập cõi Tịnh như chư Phật mười phương, xin thầy (Đức Thế Tự Tại Như Lai) chỉ giáo và hiện tướng 210 ức Phật độ, từ đó, ngài Pháp Tạng phát nguyện sẽ xây dựng một cảnh Tịnh Độ như chư Phật để giáo hóa hỗ trợ chúng sanh liễu sanh thoát tử, nương vào y báo của Ngài mà tiến tu đạo nghiệp giải thoát.”

Tạng là kho chứa, Pháp hữu vi lẫn vô vitâm hành. Hạnh nguyện tục đế để chuyển hướng đến chơn đế đều do tâm hành. Khác nhau tâm hành tục đế bị vô thường hoại diệt. Tâm hành chơn đế của bậc đại giác thoát khỏi vọng tưởng, mọi hiện tướngcông năng duy trì miên tục, vì thế ngoài Vô Lượng Quang còn là Vô Lượng Thọ. Một hành giả trong quá trình chuyển hóa ý thứ c- mạt na thức- a lại da thức- và năm thức trở thành: - Diệu Quan sát TríBình đẳng tánh tríĐại viên cảnh tríThành sở tác trí, là những diệu dụng để phổ hóa chúng sanh của một A la Hán, một Bồ Tát, một vị Phật. Hỷ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục được chuyển hóa thành bảy loại quý tính như sen mọc từ bùn nhơ. Thất giác chi phần là những vòng đai bảy lớp lưới giăng cây quý, không những biểu thị cảnh giới của Phật mà còn là cảnh giới của tâm thanh tịnh giải thoát hoàn toàn. Chấn động lực của tâm thức thanh khiết là sóng âm trang trí nhạc điểu. Một cõi Tịnh Vô Lượng Quang như thế đều được chư Phật mười phương tán dương hoan hỷ, cũng có nghĩa tâm giải thoát hoàn toàn thì vạn vật muôn loài trong không gian đều mang sắc màu tươi nhuận giải thoát. Vì vậy “Nhất thiết duy tâm tạo” trong cảnh giới huyền môn của Hoa Nghiêm xác định được “nhất đa tương dung” để minh chứng cảnh cực lạc có đủ mọi hiện tướng cõi tục nhưng bản chất phi tục khi ánh sáng tâm thức được chuyển hóa phủ trùm vô tuyến tính. Vậy hiểu thế nào khi Phật giáo không chấp nhận một linh hồn tồn tại? Cái gì hòa nhập với cõi Tịnh độ?

1/ Phải chăng có một linh hồn ? Khoa học ngày nay cũng như một số quan điểm thế tục đều chấp nhận một linh hồn trường cửu sau khi lìa khỏi xác. Phật giáo không thừa nhận như thế, nhưng tập khí nghiệp lực là một dạng sóng giao động. BS Camille Flammarion sau 60 năm nghiên cứu qua 4.800 bức thư, dùng pháp thực chứng khoa học, kết luận rằng ngoài xác thân còn có phần hồn mà mắt thường không nhìn thấy, ngoại trừ tần sóng giao động của người chết có cùng tần số giao động của người sống như các nhà ngoại cảm, họ mới thấy hoặc cảm nhận sự hiện hữu của thế giới vô hình. Tuy sự tồn tại hoàn toàn khác với thế giới vật chất, nhưng họ có khả năng tác động lên tâm thức của người sống để chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu của họ sau khi thân xác đã chết.

Ánh sáng của một sinh động vật nói chung và của con người nói riêng, biểu lộ ra bên ngoài quanh thân thể, mang nhiều thông tin của sức khỏebệnh hoạn trong ngũ tạng. Cộng hưởng với tâm thức cho màu sáng tối thanh đục tùy tâm thức khởi niệm. Huyền bí học phương Tây gọi là thể phách. Khoa học gia người Nga, Semyon Kirlian chụp được phim, đặt tên là Bioplasmic energy. Nó lưu giữ những ký ức những tư tưởng của đương sự. Đông phương huyền học gọi nó là ngoại Khí, ngày nay gọi là năng lượng sinh học ngoại biên. Như thế, nó không phải là linh hồn, từ việc chẩn đoán bệnh qua ánh sáng đó, thầy thuốc chữa bằng y dược hoặc trường sinh học chữa bằng Nhân điện; cách chữa đó đã điều chỉnh, bổ sung từ trường nội tạng. Khác nhau cách chữa của Đông y là dùng dược liệu kết hợp ngũ hành âm dương trong thang thuốc Quân-Thần-Tá-Sứ. Trường sinh học nhân điện chữa theo khu vực trách nhiệm nội tạng. Mỗi đại huyệt phụ trách một cơ phận, ví dụ luân xa ba phụ trách vùng bụng, luân xa hai chịu tác động thận… Dĩ nhiên Đông y Tây y, pháp thuật, tôn giáo mỗi lãnh vực có một quan niệm khác nhau về bệnh lý nên việc chữa trị cũng khác nhau; như thế thể xác và linh hồn không thể là một. Linh hồn nào chịu trách nhiệm về bệnh thân? Nếu bệnh thân tùy thuộc vào quyết định của linh hồn thì phải trực tiếp chữa linh hồn mà không phải chỉ duy nhất chữa bệnh thân! Linh hồnsứ mạng gì với cơ thể con người? Khoa học thực dụng ngày nay, kể cả duy vật, không thể quyết đoán con người sống chỉ thuần vật chấtvật chất quyết định tất cả, nhưng khoa học vẫn chưa chứng minh sự hiện hữu của linh hồn mặc dù họ vẫn chấp nhận ngoài thể xác phải có một linh hồn. Họ mơ hồ hiểu rằng linh hồn là một dạng sóng có khả năng tồn tại biệt lập hoặc đôi khi tác động được thể chất của người sống nếu cùng tần số giao động.

Saint Augustine từng bảo: “Điều kỳ diệu xảy ra không ngược với tự nhiên mà chỉ ngược với cái ta biết trong tự nhiên”.

Một linh hồn thuần túy là một linh hồn, có chức năng điều khiển sự sống của một động vật, thì mỗi sinh vật là một ốc đảo tự cô lập, không hề có sự liên hệ nghiệp thức lẫn nhau mà Phật giáo gọi là cộng nghiệp. Thực tế cho thấy sự hiện hữu gần hay xa đối với một sinh vật đều ít nhiều có tính tương tác cộng đồng. Sự tương tác như thế không thể có một linh hồn độc lập của một cá thể độc lập. Và một linh hồn được tạo dựng sẳn như một khối cố định thì linh hồn đó không có khả năng chuyển đổi cũng như không có khả năng chịu trách nhiệm với việc làm chính mình. Các nhà tâm linh huyền bí đều nhận thức rất rõ về nhân và quả của một sinh động vật qua trường lực ánh sáng. Trường lực đó có thể tăng hoặc giảm, có thể tồn tại hoặc hủy diệt tự thể mà không do tác động bởi ngoại lực, như thế không thể xem nó là một linh hồn tồn tại độc lập. Năng lượng sóng từ của một sinh vật, khoa học vật lý gọi là viba. Khoa học có cái nhìn tiến bộ hơn khi xác định cấu tạo con người không chỉ đơn thuần bằng phân tử. Trường năng lượng bao phủ mọi thể chất của mọi sinh vật. Tùy theo lưu hoạt nội tại mà trường năng lượng lưu xuất ra ngoại biên. Thực vật lưu hoạt hạn chế, động vật hạ đẳng lưu hoạt bất định, con người văn minh lưu hoạt năng động hơn con người bộ tộc cổ xưa, và người trí xuất phát từ trường khác hẳn người chậm phát triển. Cũng thế, hành giả chuyên chính và cao cấp thì trường lực cũng phát triển rộng hơn người không tu luyện. Màu sắc trường năng lượng thông tin cho biết đẳng cấp tâm linh của một người và từ đó, chúng có thể thay đổi thăng tiến hoặc thụt lùi. Cái mà khoa học gọi là thế giới vật chất tĩnh, thực ra là dạng năng lượng cô đặc, hào quang hay ánh sáng sinh học là dạng năng lượng vi tế, tất cả đều là sóng, hạt sóng và sợi sóng. Sự tiến bộ của khoa học chế tạo ra điện não đồ, điện tâm đồ, và xa hơn nữa là thiết bị đo từ trường con người gọi là superconducting Quantum Interference Device (Thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn) nghĩa là khoa học chỉ đo được xung lực điện trường phát ra từ con người mà chưa biết rõ gì về một linh hồn. Nhận thức, hiểu biết không phải là một linh hồn, đó chỉ là cái dụng của một tâm thức. Tâm thức không là linh hồn, nó là kết tinh từ nhiều tập khí, tập khí không phải là linh hồn, nó là thói quen thâm nhập bởi vô minh vọng niệm… Nói đúng ra, bẹ chuối không phải là thân cây chuối.

BS Leonard Ravitz trường đại học tổng hợp William and May xác định trường năng lượng giao động theo tâm lýnhận thức của mỗi người. Ông xác định thay đổi tư duy sẽ gây hiệu ứng tâm thể. Như vậy không thể có một linh hồn cố định bị tác động bởi bất cứ điều kiện nào. Bs Robert Becker cũng xác định hình thù và cường độ của hào quang con người thay đổi tùy thuộc tâm-sinh lý của con người.

Năm 1950, bs người Nga cũng tách bạch được yếu tính của trường năng lượng với cơ chế thể chất tĩnh: “trường năng lượng bioplasmic” gồm có ion-proton- và electron tự do khác biệt với trạng thái : rắn-dịch-khí và plasma của vật chất. Bioplasmic quá trình vận động chuyển hóa bởi hóa học trong té bào. Nhưng ông không nói đến sự liên hệ trực tiếp của chuyển đổi đó ảnh hưởng từ tâm thức, nói cách khác, có sự liên hệ chặt chẽ giữa tâm-sinh lý. (còn tiếp)

MINH MẪN

20/10/2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11160)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10954)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11193)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11246)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14233)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12478)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26330)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11701)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29252)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11651)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10783)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11089)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10942)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10760)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11323)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10772)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12239)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11288)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10053)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11399)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13398)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11248)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11452)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12679)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13773)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13189)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12799)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12159)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30112)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38109)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24887)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10962)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11719)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10653)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11222)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11510)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12892)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12083)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11304)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10206)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11797)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11200)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10890)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13072)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10199)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10872)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10939)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14531)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10684)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21943)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12067)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11429)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30168)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19584)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20563)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12552)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12541)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21167)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13249)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14450)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30408)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 27994)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28332)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20928)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28656)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27217)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21925)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21458)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26211)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21616)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23403)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26391)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23180)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19816)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21147)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19951)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15403)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39212)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25636)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14118)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22504)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29103)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22517)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22848)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13201)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23174)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13156)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28945)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30477)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14238)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26234)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33195)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35537)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8609)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13297)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30642)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22118)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21757)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant