Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của Karma Dordji

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14447)
Câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của Karma Dordji

Câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của

KARMA DORDJI(1)
Alexandra David Neel - Huỳnh Ngọc Chiến dịch

Karma Dordji xuất thân từ một gia đình nghèo hèn. Từ thuở nhỏ ông được cha mẹ gởi vào chùa, và ở đó ông luôn bị đám bạn bè cùng trang lứa thuộc tầng lớp giàu sang chế nhạo, khinh bỉ. Khi ông lớn lên thì đám bạn lại tìm cách xa lánh, không thèm trò chuyệnxuất thân hạ tiện của ông. Karma Dordji là người kiêu hãnh và có ý chí kiên cường. Ông kể cho tôi nghe rằng ngay từ khi còn bé, ông đã quyết tâm tìm cách vượt lên trên những kẻ đã hạ nhục mình.

Thân phận tu sĩ chỉ dành cho ông một phương tiện duy nhất để đạt đến mục tiêu. Đó là ông phải trở thành một nhà khổ tu vĩ đại, một nhà huyền thuật lỗi lạc có tài hàng ma phục quỷ, và có đi đâu cũng có kẻ hầu người hạ, hậu ủng tiền hô. Có thế ông mới có thể nhìn được cảnh những kẻ thù run sợ như cầy sấy trước mặt mình.

Quyết tâm như vậy, Karma Dordji đến xin vị tăng trụ trì tu viện cho phép ông được nghỉ hai năm, vì ông muốn lui vào rừng sâu để tham thiền. Một tâm nguyện như thế không bao giờ bị từ chối. Dordji bèn leo lên một ngọn núi cao, tìm ra được chỗ thích hợp bên dòng suối và dựng một thảo am. Tiếp theo đó, để học tập các nhà ẩn tu khổ luyện môn viêm công, ông vất bỏ tất cả quần áo và để tóc bù xù. Viêm công hay nhiệt công là pháp môn tập luyện để khơi thông những nguồn chân hỏa trong cơ thể giúp ta chống chọi với giá lạnh mà không cần quần áo. Trong suốt một thời gian dài, rất hiếm khi có người đem lương thực đến, và họ thấy ông luôn trần truồng ngồi bất động, ngay cả trong mùa đông, tựa hồ như đắm chìm trong thiền định.

Người ta bắt đầu bàn tán về Dordji, nhưng ông vẫn chưa được nổi tiếng như mong đợi. Karma Dordji hiểu ra rằng cảnh khổ tu trần truồng của mình không thể giúp ông nổi tiếng. Ông bèn hạ sơn tìm về tu viện, và lần này xin được bỏ xứ ra đi để tìm cho được một gourou nơi khác. Ông lại được toại nguyện.

Cuộc viễn trình của Karma Dordji còn ly kỳ hơn cả Yéchés Gyatzo, bởi vì Yéchés Gyatzo biết rõ mình đi đâu, trong khi Dordji cứ lang thang vô định.

Đi mãi mà vẫn không tìm ra được với sư phụ như ý, Dordji liền dồn hết đức tin vào chư thiênma quỷ. Ông thuộc lòng chuyện đạo sư Milaréspa dùng huyền thuật phá sập nhà kẻ thù, và nhớ lại những câu chuyện tương tự về chư thiên “Đại khủng khiếp” đã từng mang những cái đầu đẫm máu bỏ vào giữa đàn tràng kyilkhor(2) do các đạo sĩ huyền thuật dựng lên.

Dordji biết chút ít về nghi thức lập đàn tràng kyilkhor. Ông bèn dựng một đàn tràng bằng đá giữa một ngọn đèo hẹp, rồi cầu nguyện các nữ ác thần hãy đưa ông đến vị sư phụ mà họ đang phụng sự. Đến đêm thứ chín thì có một tiếng sấm nổ vang, rồi một cơn lũ đột ngột dâng lên ngập cả ngọn đèo. Một vòi nước tung cao quét sạch hẽm núi, cuốn Dordji trôi đi cùng với đàn tràng kyilkhor và gói hành lý đi đường. Bị cuốn trôi giữa núi đá, Dordji may mắn đã không bị chết đuối, và cuối cùng ông trôi đến một thung lũng rộng mênh mông. Khi trời sáng, ông thấy trước mắt mình là một tịnh thất (riteu(3)) thấp thoáng sau bức tường đá, nằm cheo leo trên một mỏm núi.

Căn nhà nhỏ đó quét vôi trắng hồng và tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Kẻ thoát nạn tin rằng đã thấy một tia nắng thoát ra khỏi khối sáng đó để đến đậu trên mặt mình. Nơi kia hẳn phải chốn ẩn cư của vị sư phụ mà ông đã khổ công tìm kiếm. Chắc chắn trong việc này phải có sự can thiệp của chư thiên để giúp ông hoàn thành tâm nguyện. Trong khi ông muốn vượt lên ngọn đèo để băng qua dãy núi thì các nữ ác thần lại bắt ông trôi xuống dưới thung lũng một cách thô bạo để ông gặp được tịnh thất này.

Tin chắc như thế, Karma Dordji chẳng thèm quan tâm đến cảnh mình đang trần truồng như nhộng, vì quần áo đã bị cơn lũ cuốn nát tả tơi; rồi giống như một vị thần Hérouka(4), ông xăm xăm đi đến tịnh thất kia.

Khi Karma Dordji vừa đến cổng thì có một đệ tử của vị ẩn tu đi ra ngoài múc nước. Gã đệ tử kinh hãi suýt đánh rơi cả thùng nước, khi trông thấy một người lạ đang lù lù xuất hiện trước mặt mình. Khí hậu ở Tây Tạng khác xa khí hậu ở Ấn Độ, và nếu như ở Ấn Độ, những vị ẩn tu lõa thể hoặc bán lõa thể có rất đông và không làm ai kinh ngạc, thì điều đó lại khác hẳn ở những đỉnh núi cao ở “Xứ tuyết” lạnh giá này. Rất ít vị naldjorpa ăn mặc kiểu này, họ đều sống xa những con đường có người qua lại, mà ẩn cư trong những núi sâu, cho nên ít ai thấy được họ.

- Vị nào ẩn cư trong tịnh thất này? – Karma Dordji lên tiếng hỏi.

- Sư phụ tôi, Lạt ma Tobsgyais – chú tiểu đáp.

Karma Dordji không hỏi gì thêm nữa. Ông đã thông báo những gì? Ông đã biết trước cả rồi, các nữ ác thần đã đưa ông đến với vị sư phụ mà ông mong đợi.

- Hãy vào báo với vị Lạt ma rằng Tcheu-Kyong (hộ pháp) đã đem đến cho ngài một tên đệ tử- gã đàn ông trần truồng kia nhấn mạnh từng chữ.

Chú tiểu sau một hồi ngơ ngác liền chạy vào trong để thông báo với thầy. Và vị Lạt ma cho đưa người khách vào.

Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.

Lạt ma Tobsgyais là một học giả uyên bác. Là con trai của một viên quan Trung Quốc, cưới người vợ Tây Tạng, nên ông có xu hướng thiên về thuyết bất khả tri đáng yêu, giống tổ tiên mình. Có lẽ ông lui về ẩn cư trong sa mạc là vì thích sự cô liêu quý phái và không muốn bị người khác quấy rầy việc học tập nghiên cứu, hơn là vì động cơ nào khác. Ít ra đó cũng là hình ảnh tôi cảm nhận về ông, thông qua những gì Karma Dordji mô tả. Bản thân Karma Dordji cũng được học hỏi từ các tu sĩ phụng sự Lạt ma Tobsgyais, bởi vì như ta sẽ thấy, mối quan hệ giữa Karma Dordji với vị Lạt ma rất là ngắn ngủi.

Chốn ẩn tu của Lạt ma Tobsgyais rất hợp với sự mô tả trong kinh điển: “Đừng quá gần làng mạc, đừng quá xa làng mạc”. Từ cửa sổ nhìn ra, nhà ẩn tu có thể thấy cả một thung lung hoang vắng mênh mông, và khi vượt qua ngọn núi nơi tịnh thất đang tọa lạc, ta sẽ gặp một ngôi làng trên một sườn núi đối diện, cách độ một nửa ngày đàng.

Bên trong tịnh thất bày biện rất đơn sơ, giống như nhiều chỗ ẩn cư khác, nhưng có một tủ sách khổng lồ. Những bức tranh lụa (thangka) xinh đẹp treo hai bên tường cho thấy chủ nhân không nghèo và có am hiểu về nghệ thuật.

Karma Dordji thì thân hình to như hộ pháp, mình trần trùi trụi, mái tóc bờm xờm kết thành bó, còn nối thêm một túm lông bờm bò yak thả dài tới gót, hình ảnh đó thật hoàn toàn tương phản với vị học giả tao nhã mà tôi vừa mô tả.

Karma Dordji liền kể câu chuyện đàn tràng kyilkhor và “phép lạ” của cơn lũ đã đưa mình tới “dưới chân thầy” tại một nơi xa lăng lắc như thế này. Lạt ma Tobsgyais hỏi lý do vì sao kẻ cầu đạo kia lại trần truồng như vậy.

Khi nghe Karma Dordji, bằng giọng tự hào, nói về thần Hérouka và hai năm trần truồng khổ luyện môn viêm công trong rừng, vị Lạt ma chỉ nhìn ông ta một lát, rồi thản nhiên bảo với chú tiểu đứng hầu bên cạnh:

- Hãy đưa kẻ đáng thương này vào nhà bếp, để gã sưởi ấm và cho uống trà thật nóng. Tìm một cái áo da cừu cũ nào đó đưa cho y mặc. Y đã chịu lạnh mấy năm rồi.

Nói xong, ông quay lưng bỏ đi.

Karma Dordji cảm thấy dễ chịu khi khoác tấm áo choàng bằng da, dù đã cũ mèm, và tách trà nóng đầy bơ giúp làm ông sảng khoái sau một đêm trôi trong nước lũ lạnh căm. Nhưng lạc thú vật chất này lại làm hỏng đi công phu hành xác đầy kiêu hãnh của ông. Kẻ đệ tử được chư thiên đưa đến “một cách kỳ diệu” này đã không được vị Lạt ma đón tiếp đúng cách. Sau khi ăn uống phục hồi sức lực, Karma Dordji muốn trình bày để vị Lạt ma ẩn tu biết mình là ai và mình muốn gì ở ông ta. Song Lạt ma Tobsgyais chẳng hề cho ông gặp mặt, và tựa hồ như quên bẵng mất ông đi. Tuy vậy, vị tu sĩ trụ trì vẫn dặn dò chăm sóc ông, bằng chứng là hàng ngày các chú tiểu vẫn lo cơm nước cho ông chu đáo, và chỗ nghỉ ngơi của ông vẫn là bên bếp lửa.

Từng ngày cứ trôi qua, và Dordji mất hết kiên nhẫn. Gian nhà bếp mặc dù dễ chịu thoải mái, nhưng với ông thì nó chẳng khác chi một nhà tù. Ông muốn lao động, muốn được xách nước bửa củi, nhưng các chú tiểu không cho ông làm. Vị Lạt ma đã ra lệnh ông chỉ việc ăn no ngủ ấm, ngoài ra không được làm chi cả.

Dần dần Karma Dordji cảm thấy xấu hổ vì thấy mình bị đối đãi như con chó con mèo trong nhà, người ta nuôi mà không đòi hỏi làm chi cả. Trong những ngày đầu, ông nhiều lần xin các chú tiểu cho ông được bái kiến vị Lạt ma nhưng họ đều từ chối, lấy cớ rằng họ không dám làm kinh động đến sư phụ, và nếu như Hòa thượng (Rimpotché) muốn gặp thì ngài sẽ cho người gọi đến. Bởi vậy, Karma Dordji không dám yêu cầu nữa. Niềm an ủi duy nhất của ông giờ đây là theo dõi khi vị Lạt ma ngồi một mình trước hàng lan can nhỏ ngoài hiên, hoặc chăm chú lắng nghe vị này giảng giải nghĩa kinh cho các môn đồ hay cho khách đến viếng chùa. Ngoài những giây phút học lóm hiếm hoi này, Karma Dordji thấy thời gian trôi qua thật chậm chạpvô vị, trong khi trong lòng ông lại bừng cháy với khát vọng đã đưa ông đến nơi đây.

Gần một năm như thế trôi qua khiến Karma Dordji rất đỗi muộn phiền. Ông thà tinh tấn chịu đựng mọi thử thách khắc nghiệt nhất, còn hơn là bị vị Lạt ma quên lãng hoàn toàn. Điều đó làm cho ông vô cùng bối rối. Ông đoán rằng có lẽ Lạt ma Tobsgyais dùng huyền lực biết được xuất thân hạ tiện của ông – mặc dù ông đã thú nhận điều đó với ngài - cho nên ngài khinh bỉ ông, để cho ông ăn của bố thí trong chùa vì lòng thương hại. Tư tưởng này cứ gậm nhấm trong đầu, càng ngày càng làm cho ông thêm đau khổ.

Quyết tâm học cho bằng được phép lạ nơi vị Lạt mađịnh mệnh đã đưa ông đến, và tin tưởng rằng đây là vị sư phụ duy nhất trên thế gian, Karma Dordji không hề nghĩ đến chuyện bỏ đi tìm sư phụ khác, nhưng ý định tự tử đôi khi lại thoáng qua đầu.

Khi Karma Dordji gần như đắm chìm trong tuyệt vọng thì nhà chùa lại đón tiếp một vị khách là cháu của Lạt ma trụ trì. Vị khách này là một Lạt ma hóa thân (tulkou), tu viện trưởng một tu viện lớn, đi đâu có đoàn tùy tùng đông đảo theo hầu. Rực rỡ trong tấm áo choàng brocart vàng chói, đầu đội mũ gỗ nhọn lấp lánh như ngôi bảo tháp, vị Lạt ma hóa thân đó cùng đoàn tùy tùng dừng lại dưới chân núi của chốn ẩn cư. Những tấm lều xinh đẹp được dựng lên làm nơi tạm trú. Sau khi dùng trà trong một bình bằng bạc do Tobsgyais sai thị giả đem xuống, vị Lạt ma hóa thân đi lên tịnh thất của chú mình.

Những ngày sau đó, ngạc nhiên khi thấy một người khách lạ khoác cái áo choàng cũ mèm với mái tóc dài bết đất, cứ suốt ngày ngồi bên bếp lửa, vị Lạt ma hóa thân bèn cho gọi Karma Dordji lại hỏi nguyên cớ. Dordji nhân cơ hội này kể lể, trình bày hết nỗi niềm, và mong vị hóa thân tạo cho ông một cơ hội.

Vị Lạt ma hóa thân kia hẳn cũng có óc khôi hài như ông chú nên chẳng hề quan trọng hoá mọi chuyện. Ông chỉ ngạc nhiên nhìn gã hộ pháp trước mặt mình, và hỏi Karma Dordji muốn học hỏi gì ở Lạt ma Tobsgyais.

Cuối cùng thấy cũng có người quan tâm đến chuyện của mình, Karma Dordji lấy lại niềm tin. Ông trả lời là muốn học những phép thuật như bay lượn trên không, hô phong hoán vũ, đảo hải bài sơn, lay trời chuyển đất, nhưng ông cẩn thận giấu kín lý do vì sao mình cần phải đi học những thứ đó.

Chắc chắn vị Lạt ma hóa thân cảm thấy thú vị. Ông hứa sẽ nói lại với người chú, thế nhưng trong suốt hai tuần ở lại thăm chùa, ông ta chẳng hề ngó ngàng gì đến Karma Dordji.

Vị hóa thân từ biệt người chú và cùng đoàn tùy tùng ra đi. Từ tịnh thất nhìn xuống, người ta thấy những kẻ tùy tùng dắt một con tuấn mã, yên cương đều nạm vàng sáng lấp lánh dưới ánh nắng ban mai. Karma Dordji nhìn theo, bụng bảo dạ vị hóa thân kia chắc không nói gì với sư phụ Tobsgyais, khi ông ta đi rồi thì bao hy vọng cũng trôi theo dòng nước.

Ông toan quỳ xuống để chào từ biệt vị hóa thân, thì nghe vị này buông một câu gọn lỏn:

- Đi theo ta!

Karma Dordji hơi sửng sốt. Người ta chưa hề bắt ông làm bất cứ điều gì. Vậy thì vị Lạt ma này muốn gì đây? Lều trại dưới chân núi đã được xếp gọn gàng để sẵn sàng lên đường, vậy thì có việc gì để ông làm nữa? Hay là vị hóa thân này muốn tặng cho người chú một món quà mà để quên dưới chân núi nên nhờ ông xuống mang lên?

 Khi đến chân núi, vị hóa thân ngoảng lại bảo:

- Ta đã trình bày với Kouchog Rimpotché (Đại Hòa thượng) về nguyện vọng muốn học huyền thuật của ông. Ngài trả lời cho ta biết trong tịnh thất này không có những sách vở loại đó để ông nghiên cứu. Loại sách vở đó bên ta có rất nhiều, nên Hòa thượng dặn ta đưa ông qua bên đó để tha hồnghiên cứu, học hỏi. Ngựa của ông đó, hãy lên ngựa và đi theo đoàn tùy tùng của ta.

Dứt lời, vị Lạt ma lên ngựa đi theo đoàn tùy tùng đang đứng chờ ông.

Tất cả mội người quay mặt về hướng tịnh thất, cung kính quỳ xuống lạy từ biệt Lạt ma Tobsgyais, rồi nhảy lên yên ngựa, phi nước đại đi xa dần.

Karma Dordji đứng sững tại chỗ, một người hầu đặt dây cương vào tay ông. Ông thấy mình ngồi trên yên ngựa, rồi thúc ngựa đi theo đoàn người, mà không hề quan tâm điều gì sẽ chờ đợi mình.

Chuyến đi có một sự cố nhỏ. Vị Lạt ma hóa thân chẳng hề đoái hoài gì đến Karma Dordji, dù ông ở chung lều và ăn uống chung với những tu sĩ trong đoàn(5).

Tu viện của vị hóa thân còn xa lắm mới sánh được với quy mô hoành tráng của những tu việnTây Tạng. Tuy nhiên, dù bề ngoài trông khá nhỏ, song nó lại rất đầy đủ tiện nghi.

Sau khi đến tu viện được bốn ngay, một trapa đến báo cho Karma Dordji biết rằng vị tulkou đã cho mang vào mật thất (tsham skhang) tất cả sách vở cần thiếtLạt ma Tobsgyais yêu cầu để ông nghiên cứu. Vị trapa còn nói thêm rằng trong suốt thời gian nghiên cứu trong mật thất, tu viện sẽ gởi đồ ăn thức uống đều đặn đến cho ông.

Karma Dordji làm theo lời hướng dẫn, và sống trong một mật thất sạch sẽ gần tu viện. Cửa sổ nhìn ra tu viện với mái ngói mạ vàng chói sáng, và xa hơn nữa là thung lũng được bao quanh bằng những sườn đồi cây cối rậm rạp. Bên cạnh bàn thờ trên gác là ba mươi bộ kinh sách được bao bọc cẩn thận, và buộc chặt bằng dãi lụa.

Nhà huyền thuật tương lai cảm thấy thoải mái. Ông bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng các pho kinh sách kia.

Trước khi để Karma Dordji ở đó, vị trapa còn dặn thêm rằng với tulkou không quy định ông phải ở mãi trong mật thất. Ông có thể tự do sắp xếp thời gian biểu cho sinh hoạt của mình, có thể đi múc nước ở con suối gần đó và đi dạo thoải mái. Nói xong, vị trapa chỉ cho ông thấy những túi lương thực và đống củi trước khi bỏ đi.

Karma Dordji say sưa đọc. Ông thuộc lòng những thể thức luyện huyền thuật và siêng năng thực hành với kỳ vọng sẽ đạt được thần thông để khỏi phụ lòng vị gourouLạt ma Tobsgyais đang chờ ngày ông quay trở lại. Ông lập nhiều đàn tràng kyilkhor theo hướng dẫn trong sách, dùng bột mì và bơ để làm những cái bánh cúng torma đủ mọi hình dạng để luyện huyền thuật chớ không ăn, đồng thời tinh tấn tham thiền nhập định.

Suốt mười tám tháng trời, lòng nhiệt tình của ông không hề sút giảm. Ông chỉ bước chân ra ngoài mật thất để đi lấy nước, không hề trò chuyện với những trapa mang lương thực đến hai lần mỗi tháng, và cũng không hề đến bên cửa sổ để nhìn ra ngoài. Dần dần, những tư tưởng trước kia ông chưa bao giờ nghĩ đến giờ đây thấm dần vào ông trong quá trình thiền định. Đối với ông, những câu kinh văn, những vòng tròn huyền thuật giờ đây mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ, xuất hiện trong một làn ánh sáng hoàn toàn khác. Ông dừng chân bên cửa sổ mở rộng nhìn cảnh các tu sĩ đi đi lại lại ở bên ngoài. Cuối cùng, ông rời mật thất, chạy lên trên núi, nhìn thật lâu vào từng cái cây, từng viên đá cuội, nhìn mây bay lơ lửng trên trời, nhìn dòng suối tuôn róc rách, tất cả đang hòa điệu trong trò chơi của ánh sáng và bóng tối.

Ông ngồi đó hàng giờ, nhìn những ngôi làng rải rác trong thung lũng, quan sát những người nông dân đang cày bừa trên ruộng đồng, nhìn đàn gia súc đang đủng đỉnh thồ vật nặng trên lưng hoặc đang nhởn nhơ ngoài đồng cỏ.

Mỗi chiều, sau khi thắp đèn trên bàn thờ xong là Karma Dordji bắt đầu ngồi thiền. Nhưng giờ đây ông không còn tìm kiếm nữa, không còn thực hành theo các nghi quỹ trong kinh sách nữa, không còn cầu các nữ thần hiện thân ra nữa. Karma Dordji ngồi thiền như thế cho đến nửa đêm hoặc đến lúc bình minh. Ông ngồi yên bất động, đánh mất toàn bộ giác quantư tưởng, ông thấy mình như đứng trên bờ sông nhìn cơn thủy triều đang dâng lên từ một đại dương lấp lánh mơ hồ, sẵn sàng nhận chìm ông dưới làn nước mênh mông trắng xóa.

Hai tháng nữa trôi qua, rồi đến một đêm hay một ngày ông không nói rõ, Karma Dordji thấy thân thể mình từ từ bay lên khỏi tấm bồ đoàn ông đang ngồi. Vẫn không thay đổi tư thế ngồi thiền với hai chân bắt chéo, Karma Dordji bay ra khỏi cửa, trôi bồng bềnh rồi bay lượn trên không. Cuối cùng, ông bay về đến quê nhà, đến trước tu viện ngày xưa. Lúc đó là buổi sáng, các trapa vừa mới tản ra khỏi hội trường sau buổi lễ sớm. Ông nhận ra rất nhiều người trong họ: nào là những tu sĩ có chức sắc, nào là những tulkou, nào là những bạn đồng môn thuở trước. Ông thấy ai nấy cũng đều có vẻ mệt mỏi, bận bịu và muộn phiền, nên càng tò mò nhìn thật kỹ. Từ trên cao nhìn xuống trông họ thật nhỏ bé đáng thương biết ngần nào! Khi ông hiển lộ thần thông cho họ thấy thì trông họ sững sờ kinh hoảng biết bao nhiêu! Và khi tất cả quỳ xuống trước mặt ông- nhà huyền thuật đã đạt được những quyền năng siêu nhiên - thì trông họ càng thảm não!

Nhưng rồi ngay cả ý tưởng chiến thắng trước đám người kia cũng khiến ông mỉm cười thương hại. Ông thấy thật nhọc lòng vô ích khi phải bận tâm đến những con người nhỏ bé đớn hèn đó. Ông không còn nghĩ đến họ nữa. Ông nghĩ đến niềm vĩnh phúc chan hòa trong ngọn thủy triều dâng cao của đại dương bao la lấp lánh và rất đỗi bình yên, không một gợn sóng lao xao. Ông không còn muốn hiển lộ thần thông ra trước đám người kia nữa. Họ có nghĩ gì về ông cũng không còn gì quan trọng, ngày xưa họ đã khinh bỉ làm nhục ông, rồi ông khao khát trả thù… tất cả điều đó giờ đây đều trở thành khôi hài và vô nghĩa. Bao nhiêu ý tưởng về vinh quang và thù hận đều tan biến.

Ông bay trên không trung để quay về. Đột nhiên cả tòa tu viện đều chấn động rồi sụp đổ tan tành. Các dãy núi chung quanh cũng lắc lư hỗn loạn, đỉnh núi này vừa sụp thì đỉnh khác lại nhô lên. Mặt trời băng qua bầu trời như một ngôi sao băng, tựa hồ như rơi xuống. Rồi một mặt trời khác xuất hiện, chọc thủng cả nền trời. Cảnh tượng huyền nảo dị thường đó cứ nối tiếp nhau đến vô biên vô tận. Dordji không còn phân biệt được gì ngoài một cơn lũ thét gầm cuồng nộ, mà những con sóng tung bọt trắng kia chính là mọi loài vô tri hay hàm thức trên thế gian này.

Ảnh tượng này không phải là điều hiếm xảy ra đối với các đạo sư huyền thuật Tây Tạng khi nhập định. Không nên lẫn lộn chúng với giấc mơ. Chủ thể quán sát ảnh tượng này không hề mơ ngủ, và thông thường thì dù hoàn tất cuộc viễn trình qua thế giới ảnh tượng đó, hành giả vẫn hoàn toàn ý thức về bản thânkhông gian quanh mình. Do đó, đôi khi ở trong lúc nhập định xuất thần mà có nguy cơ bị nhiễu loạn, thì hành giả sẽ cảm thấy bất an, và muốn đừng có điều gì xảy đến, không muốn có ai nói chuyện với mình hay gọi mình, không ai gõ cửa v.v… trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo. Trong trường hợp đó, mặc dù không thể nói năng hay di chuyển, song hành giả vẫn có thể lắng nghe và cảm nhận được những diễn biến chung quanh. Lúc đó, mọi âm thanh hay cảnh mọi người tới lui, qua lại sẽ đem lại cho hành giả cảm giác hết sức nặng nề. Nếu ngoại cảnh kéo hành giả ra khỏi trạng thái tâm thức đó, hoặc nếu vì một lý do nào đấy mà hành giả buộc phải nỗ lực thoát ra, thì một cơn chấn động tinh thần tiếp theo sẽ gây nên xung đột đau đớnhậu quả nặng nề còn lưu lại rất lâu.

 Chính vì thế, để tránh những cơn chấn động cùng những hậu quả đáng tiếc đối với sức khỏe, hành giả cần phải tuân thủ những quy định khi chấm dứt sau một buổi ngồi thiền, nếu thời gian ngồi thiền tương đối kéo dài. Chẳng hạn hành giả phải quay đầu chầm chậm từ phải qua trái, xoa trán một lúc, bắt chéo tay ra sau lưng, ưỡn người ra phía sau v.v… Mỗi người chọn một cách phù hợp với mình.

Đối với Thiền tông Nhật Bản, các tu sĩ tập trung tọa thiền trong một thiền phòng lớn, một vị giám sát tăng cầm thiền bảng theo dõi, hễ thấy người nào có vẻ uể oải buồn ngủ sẽ quất một cú vào vai để đánh thức. Tất cả những ai đã nếm mùi thiền bảng đều nói rằng cú đánh đó giúp phục hoạt lại thần kinh.

Karma Dordji quay về lại mật thất và nhìn và nhìn cảnh vật quanh mình. Căn phòng đó, cùng đống sách vở trên giá gỗ, bàn thờ đó cùng với bếp lò, tất cả cũng y nguyên như ngày hôm qua, như ông đã nhìn một cách quen thuộc suốt gần ba năm nay. Ông đứng lên, đến bên cửa sổ nhìn ra. Tu viện, thung lũng, những rừng cây bao phủ sườn núi vẫn hiện ra với dáng vẻ thân quen. Không có gì thay đổi, thế nhưng tất cả đều khác biệt.

Karma Dordji bình thản nhóm lửa, và khi đống củi cháy bùng lên thì ông lấy kéo cắt đứt mái tóc naldjorpa dài phủ gót của mình, rồi ném nó vào trong đống lửa. Ông pha trà, uống trà, lặng lẽ bỏ một ít lương thực vào tay nải, khoác trên vai rồi bước ra ngoài, không quên cài then mật thất cẩn thận.

Khi tới tu viện, ông đi đến trước gian phòng của vị tulkou thì gặp một chú tiểu đứng ngoài sân. Karma Dordji nhờ chú tiểu chuyển lời từ biệt đến vị sư phụ, và ngỏ lời cám ơn vị trụ trì nhân đức đã cưu mang ông trong thời gian qua. Nói xong, Dordji quay lưng bỏ đi.

Đi được một quãng thì Karma Dordji nghe có tiếng người gọi. Ông quay lại nhìn thì thấy một chú tiểu chạy đến bảo:

- Đại hòa thượng (Kouchog Rimpotché) muốn gặp sư huynh.

Dordji liền quay lại tu viện.

Vị Lạt ma trụ trì từ tốn hỏi:

Ông muốn rời tu viện, nhưng ông sẽ đi đâu?

Karma Dordji đáp:

- Quay về lại với bổn sư (gourou).

Vị Lạt ma tulkou im lặng một lúc, rồi cất giọng buồn bã:

- Tôn thúc của ta đã vượt ra ngoài cõi khổ đau(6) hơn sáu tháng nay rồi.

Karma Dordji lặng người không nói được một lời.

Vị Lạt ma nói tiếp:

- Nếu ông muốn quay về lại tịnh thất (riteu) của Rimpotché thì ta sẽ tặng ông một con ngựa làm quà. Về đó, ông sẽ gặp một Lạt ma trụ trì mới, đó là pháp tự của người.

Karma Dordji cảm tạ và không nhận gì cả. Mấy ngày sau, ông quay về lại tịnh thất màu trắng, nơi anh nắng đầu tiên đậu trên vầng trán và chỉ đường cho ông đi. Dordji đi vào căn phòng của vị Lạt ma quá cố, nơi ông chỉ đặt chân vào một lần duy nhất trong ngày đầu đến nơi đây, quỳ xuống khấu đầu trước bồ đoànLạt ma Tobsgyais vẫn ngồi thiền hàng đêm.

Sáng hôm sau, Dordji từ giã vị trụ trì mới. Vị này khoác cho ông cái áo choàng zen của vị Lạt ma quá cố.

Từ đó, Karma Dordji sống một đời vân du phiêu lãng, phần nào giống với vị Thánh tăng khổ hạnh Milaréspa mà ông vô cùng tôn kính. Khi tôi gặp ông thì ông cũng đã già, nhưng vẫn không nghĩ đến chuyện tìm một chỗ định cư.

Hiếm có vị Tăng khổ hạnhTây Tạng nào lại có cuộc đời kì dị như Karma Dordji. Lý do ông khổ công tầm sư học đạo cũng rất đỗi lạ lùng, nên tôi mới kể dài dòng ra đây. Tuy vậy, chuyện tu tập của những môn đồ các gomtchén cũng luôn mang những sắc thái lạ thường. Tôi đã nghe kể nhiều câu chuyện về chủ đề này, và kinh nghiệm của bản thân tôi với tư cách là một môn sinh nơi “Xứ tuyết” đã khiến tôi phải tin rằng một phần lớn những câu chuyện đó là hoàn toàn có thật.

 

(1) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB.PLON, 1929, các trang 194-206. (Ghi chú của người dịch; các ghi chú trong nguyên tác sẽ ghi thêm (T.g)).

(2) Kyilkhor là một loại đồ hình vẽ trên giấy hoặc trên vải, có khi khắc trên kim loại, trên đá hay trên gỗ. Một số kyilkhor được thiết kế cùng những lá cờ nhỏ, đèn, hương, bánh bột dùng để cúng gọi là torma, và những chai lọ đựng nhiều vật cúng khác nhau... để tạo nên một vòng tròn nhỏ. Những nhân vật được tạo hình trong đó cùng đoàn tùy tùng thường không hiện ra dưới hình dáng thật, mà chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Ví dụ chư thiên hay các vị Lạt ma được tạo hình như một kim tự tháp nhỏ bằng bánh bột gọi là torma. Các kyilkhor có khi được vẽ trên nền nhà hoặc trên nền đất bằng bột màu.

(3) Bản tiếng Anh phiên âm là ritöd và dịch là “chốn ẩn cư” (hermitage). Riteutịnh thất nằm ẩn khuất trên những sườn núi chênh vênh, dành cho các vị ẩn tu.

(4) Vị thần Lạt ma giáo tượng trưng cho các nhà khổ tu lõa thể. (T.g).

(5) Những người hầu của Lạt ma phải là những tu sĩ. Những người thế tục không được phép ở trong khuôn viên tu viện. (T.g).

(6) Nya-nien les des song: cách nói tôn kính về một vị Lạt ma thánh thiện đã viên tịch, có nghĩa là đã đạt đến cõi Niết Bàn. (T.g).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11164)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10969)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11204)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11263)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14253)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12488)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26350)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11708)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29266)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11659)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10794)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11100)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10956)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10769)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11326)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10783)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12249)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11298)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10058)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11409)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13419)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11262)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11473)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12697)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13782)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13194)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12810)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12170)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30139)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24906)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10971)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11737)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10670)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11228)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11526)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12910)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12092)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11323)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10208)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11810)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11210)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10903)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13078)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10201)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10881)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10947)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14541)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10694)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21961)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12074)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11434)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30179)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19591)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20583)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12563)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12560)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21193)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13256)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14473)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30421)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28023)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28370)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20956)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28679)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27234)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21951)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21488)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26224)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21631)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23407)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26406)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23203)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19840)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21166)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19965)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15416)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25667)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14131)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26070)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22516)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22556)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22885)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13213)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23195)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13171)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28965)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30497)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14250)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26268)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33232)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35568)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8645)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13316)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30664)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22142)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21774)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant